Sư định tỉnh rồi lại leo lên đỉnh, và nói: Kiếp sống đã nhàm, đại nguyện đã phát, mong Hải Hội Thánh Chúng đến tiếp đón con, chớ để con sống lại lần nữa.
Sư Thích Chí Thông, họ Trương, người Phù Phong. Cuối đời Hậu Đường, chiến tranh ngày càng gia tăng, Sư cho rằng mình ở chốn vô thường nên càng bi thương thống thiết. Sư đi đến Lạc Hạ (Lạc Dương), gặp được ngài Tam Tạng Phạ-nhật-ra đang hành trì giáo pháp Du-già, ngài nói: Ta không truyền thừa mật tạng này của Như Lai thì ta có lỗi.
Nghe vậy, Sư xin xuống tóc xuất gia, nhận Tam Tạng Phạ-nhật-ra làm thầy và được trao truyền giáo nghĩa Mật tạng. Sư mười năm bên thầy siêng năng phụng sự, không chút trễ nãi.
Sau đó, vì muốn lên núi Thiên Thai dạo non La Phù nên Sư đến từ biệt thầy. Thầy nói: Binh đao chưa yên mà con bàn việc đi về phương nam, biết làm sao khi con đường còn nhiều nguy hiểm?
Sư thưa: Đi bằng thuyền thì đâu có gì trở ngại!
Ngài Phạ-nhật-ra nói: Nếu con đến đất Ngô thì ta có thể trao bản Phạn văn, gặp thời thuận tiện thì dịch ra lưu truyền, đây cũng là việc làm của ta vậy. Nói xong, ngài trao bản Phạn văn cho Sư.
Niên hiệu Thiên Phúc thứ tư (939) đời Hậu Tấn, đang lúc vua Thạch Kính Đường trị vì, Văn Mục Vương ở Tiền Đường, vâng lệnh triều đình, với đầy đủ lễ nhạc cung nghinh Sư đến Chân Thân Tháp Tự.
Ở đây chưa được bao lâu, Sư xin đến thăm núi Thiên Thai. Thế rồi, Sư lên Xích Thành, trèo lên Hoa Đỉnh, vừa thấy được bộ Tịnh độ nghi thức của ngài Trí Giả, sư vỗ tay vui mừng vô cùng. Từ đó, Sư không hướng về phía tây mà khạc nhổ, không ngồi quay lưng về hướng tây.
Ở Thiên Thai có ngọn núi Chiêu Thủ sừng sững cao vút. Từ trên đỉnh nhìn xuống cách nghìn tầm. Sư leo lên đỉnh, quay lại nói: Ta đã lên đến đây, ngay lúc này không xả báo thân để được gặp Phật thì còn đợi ngày nào nữa!
Nói xong, sư nhắm mắt quay về hướng tây bày tỏ đại nguyện và nhớ tưởng đến nhân địa khởi phát hạnh nguyện của Đức A-di-đà. Nguyện xong, Sư gieo mình xuống vực thẳm. Rơi xuống giữa chừng thì như có vị thần đỡ Sư đặt trên cây nên Sư không hề bị tổn thương. Sư nói: Sao ta lại còn sống?
Sư định tỉnh rồi lại leo lên đỉnh, và nói: Kiếp sống đã nhàm, đại nguyện đã phát, mong Hải Hội Thánh Chúng đến tiếp đón con, chớ để con sống lại lần nữa.
Nói xong Sư lao mình xuống núi. Sư rơi xuống đám cỏ rậm dưới chân núi, ngất đi một lúc lâu rồi tỉnh lại. Tăng chúng trong chùa nghi Sư bỏ đi nơi khác hay bị chó sói làm hại nên theo dấu đi tìm, mới biết Sư muốn xả báo thân. Chư tăng đưa Sư về chùa chữa trị.
Niên hiệu Thiên Phúc thứ sáu (941), Sư xin đi đến núi Pháp Hoa thuộc Việt Châu. Niên hiệu thứ bảy (942), trước lúc viên tịch, Sư thấy bạch hạc, khổng tước thẳng hàng từ phương tây bay đến. Lại thấy hoa sen rực rỡ nở ra, khép lại trước mắt. Sư nói: Bạch hạc, khổng tước là cảnh Tịnh độ, có hoa sen rực rỡ là nơi ta sinh về. Cõi Tịnh độ sắp rước ta rồi!
Sư đứng dậy lễ Phật, rồi đứng trước bàn Phật viên tịch. Khi hỏa táng, có khói mây năm sắc tạo thành vòng tròn che phủ ngọn lửa. Tại núi Pháp Hoa, Tăng chúng đều nhìn thấy tướng lành này.
* Ghi chú của LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ:
Khạc nhổ tránh hướng tây, ngồi không quay lưng hướng tây, hết lòng như vậy thì không việc gì không thành tựu! Nay dùng tâm khinh mạn, tâm hời hợt mà muốn vãng sinh Tây phương thì rất khó. Có người nói: “Sao mà chấp quá vậy!”. Ôi! Quán mặt trời lặn ở hướng tây là vì việc vãng sinh trong kinh ghi chép rất rõ ràng. Vả lại, Trí Giả đại sư lúc mới sinh ra đã ngồi kết già xoay mặt về hướng tây, thậm chí các bậc hiền tu Tịnh nghiệp đều ngồi xoay mặt về hướng tây thị tịch. Những trường hợp ấy không chấp mà được như vậy sao? Người có tâm tham đắm cảnh ô trược, trọn đời an nhiên ở trong đó, vừa nghĩ đến cõi Cực Lạc, lại lo là chấp trước thì thật quá điên đảo. Ôi! Sao kì lạ quá!
Trích: Bốn Chúng Vãng Sanh – Pháp Sư Đạo Thế!