Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn

Nói đến chuyên tu, chuyên hoằng, cần phải đầy đủ điều kiện “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Ba sự việc này khó, khó nhưng rất đáng quý.

Tôi có ba vị lão sư, lão sư Phương dạy tôi nhận biết Phật pháp, nhận biết chính xác, không có hiểu lầm. Đại Sư Chương Gia dạy tôi phát tâm học Phật, tôi cũng rất hoan hỉ. Ngài dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, đây là nơi tâm địa mà chúng ta ngưỡng vọng. Thích Ca Mâu Ni Phật 49 năm giảng kinh dạy học, nói ra nhiều kinh luận đến như vậy, người sau chúng ta ngưỡng mộ vô hạn đối với ngài, tôn trọng, kính yêu ngài. Đại Sư Chương Gia còn khuyên tôi xuất gia, bởi vì tôi một mình ở Đài Loan, nên không có chướng ngại gì. Tôi xem bộ sách đầu tiên có liên quan đến Phật giáo là Đại Sư Chương Gia dạy tôi, ngài bảo tôi xem “Thích Ca Phổ”, “Thích Ca Phương Chí”. Hai quyển sách này chính là truyện ký của Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài nói với tôi “Học Phật, nếu như không nhận biết đối với Phật sẽ đi sai đường. Bạn nhất định phải nhận biết ngài, hiểu rõ ngài, bạn mới có thể học tập với ngài”.

Tôi nghĩ việc này rất có đạo lý. Sau khi tôi đọc xong hai quyển sách này mới biết được Phật giáo không nên gọi là tôn giáo. Bởi vì dùng định nghĩa trong tôn giáo hiện tại để nhìn Phật giáo, thì Phật giáo không tương ưng với tôn giáo. Vì sao? Tôn giáo cái điều thứ nhất chính là phải có một vị thần sáng tạo vũ trụ, nhưng trong Phật giáo không có. Phật giáo nói có thiên thần, có quỷ thần, những vị thần này cùng địa vị với người chúng ta là bình đẳng. Giống như người Trung Quốc chúng ta xem thấy người nước ngoài họ cũng là người, giữa vũ trụ đích thực có Thiên thần, có Quỷ thần, thừa nhận họ tồn tại, nhưng tuyệt nhiên không thừa nhận họ sáng tạo vũ trụ, họ cũng là chúng sanh, cho nên thảy đều qui nạp là chúng sanh, chúng duyên hòa hợp mà khởi lên hiện tượng. Phật giáo nói có mười loại lớn chúng sanh, mười loại lớn này thảy đều là do chúng duyên hòa hợp mà sanh khởi hiện tượng. Phật là vậy, Bồ Tát cũng là vậy, Thanh Văn, Duyên Giác đều là vậy, sáu cõi bên dưới, thiên nhân là vậy, người cũng vậy, A Tu La cũng thế, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thảy đều là chúng duyên hòa hợp mà sanh khởi hiện tượng. Cho nên Phật pháp nói duyên khởi khởi nguồn của cả thảy vũ trụ, không phải là do một người nào sáng tạo ra, ngay cả thần tồn tại cũng là do duyên khởi. Cái điều này Phật pháp cùng với khoa học đã nói là tương ưng. Cho nên trong Phật kinh có khoa học, không chỉ có khoa học mà hơn nữa còn có khoa học viên mãn.

Lão sư Phương là học triết học, ông nói với tôi:

– Thích Ca Mâu Ni Phật là nhà triết học vĩ đại nhất trên thế giới. Kinh Phật là đỉnh cao nhất của triết học trên thế giới, không chỉ nó là quyển sách của triết học, cao đẳng triết học, cao nhất trong sách của triết học.

Ông còn nói với tôi:

– Học Phật là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh.

Chính điều này dẫn khởi chúng ta hứng thú học Phật, cái thứ này quá tốt, quá khó được. Cho nên khi tôi gặp được Đại Sư Chương Gia, ngài là Đại đức đại thiện tri thức của nhà Phật, chuyên môn Phật pháp, tôi liền theo học với ngài. Tôi theo học lão sư Phương đại khái khoảng nửa năm, cùng với Đại Sư Chương Gia ba năm. Khi tôi theo ngài, tôi 26 tuổi, đại sư ngài là 65 tuổi, 68 tuổi thì Đại sư viên tịch, ngài ra đi, cho nên tôi theo ngài được 3 năm, 3 năm này ngài định đặt cho tôi nền tảng Phật học. Sau đó tôi rời khỏi công việc khoảng mười năm, tôi tiếp nhận giáo huấn của Đại Sư Chương Gia đi xuất gia, chuyên môn để tu học Phật pháp, đại thừa trong Phật pháp, đây là Đại Sư Chương Gia kỳ vọng đối với tôi.

Sau khi từ bỏ công việc, lão cư sĩ Chu Kính Trụ, pháp sư Sám Vân, giới thiệu tôi quen biết lão sư Lý, đưa tôi đến Đài Trung học tập kinh giáo. Ở Đài Trung theo lão sư Lý mười năm, định đặt nền tảng kinh giáo. Tôi 33 tuổi xuất gia, xuất gia liền dạy Phật học viện, liền bắt đầu ra ngoài giảng kinh.

Tôi nhớ được tôi lần đầu dùng thân phận xuất gia ra bên ngoài giảng kinh là ở Liên Xã Phật Giáo Đài Đông. Vào lúc đó xã trưởng là pháp sư Minh Huấn, là sư huynh đệ với tôi. Ông ở nơi đó xây một đạo tràng, mời tôi đến giảng kinh, tôi nhớ được kinh mà tôi lần đầu giảng là “A Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung Kinh”.

Quyết định hành môn, chân thật quyết định hành môn, tu Tịnh Độ, tiếp nhận khuyến cáo của lão sư Lý là do Hoa Nghiêm khải tín. Khi tôi trẻ tuổi học kinh giáo, bội phục nhất là “Kinh Hoa Nghiêm”. Đây là một bộ kinh lớn của đại thừa, nội dung trong đó quá phong phú. “Hoa Nghiêm” nói cái gì? Nói chân tướng vạn sự, vạn vật của vũ trụ (chính là chân tướng của tất cả pháp), nói từ vũ trụ khởi duyên của sinh mạng, nói đến hiện tiền chúng ta, nói đến tương lai của chúng ta, thảy đều nói đến. Thật sự là triết học viên mãn, khoa học viên mãn, ở cả hai phương diện khoa học và triết học đều đạt đến đỉnh cao nhất, được nhà khoa học lượng tử của hiện đại thừa nhận.

Vào hai ba mươi năm gần đây, nhà lượng tử vật lý có tiến triển rất lớn, xuyên thấu bí mật của vũ trụ, nhưng những cái phát hiện này của nhà lượng tử trên kinh đại thừa đều đã có. Hay nói cách khác, những phát hiện mới này của họ thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã phát hiện cách đây 3 ngàn năm rồi. Ba ngàn năm trước Phật đã phát hiện rồi, sau ba ngàn năm những nhà vật lý lượng tử này họ mới phát hiện ra. Sau khi phát hiện ra, vừa đối chiếu thì hoàn toàn như nhau.

Nói đến chuyên tu, chuyên hoằng, cần phải đầy đủ điều kiện “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Ba sự việc này khó, khó nhưng rất đáng quý. Nếu chân thật làm đến được rồi thì không ai không thành tựu, làm đến đầy đủ ba điều kiện: cái thứ nhất thành thật, cái thứ hai nghe lời, cái thứ ba là thật làm.

Tôi bái lão sư Lý, năm đó tôi 31 tuổi. Ngày đầu tiên gặp mặt ngài, lão sư đưa ra ba điều kiện, nếu như ba điều kiện này tôi có thể tiếp nhận, thì ông lưu tôi lại ở Đài Trung để học tập với ông, nếu như không thể tiếp nhận thì ông không giữ tôi lại, “anh nên tìm cao minh khác”. Ba điều kiện gì vậy?

Điều kiện thứ nhất: ngày trước những gì anh đã học, chính là nói những gì tôi đã học với lão sư Phương, học với Đại Sư Chương Gia, ông đều không thừa nhận, hoàn toàn phế bỏ, bắt đầu từ ngày mai phải học với tôi, hoàn toàn nghe tôi, đây là điều kiện thứ nhất.

Điều kiện thứ hai: nếu học với tôi, bất cứ pháp sư đại đức nào đến giảng kinh dạy học ở Đài Trung cái khu vực này, nếu không được sự đồng ý của tôi, anh không được phép nghe. Bạn xem cái thứ nhất, tôi học rất đơn giản, không tạp loạn, chỉ theo hai vị lão sư, nhưng những gì hai vị lão sư đó đã dạy ông không thừa nhận, phải nghe lời ông, bất cứ người nào khác giảng kinh dạy học không được phép nghe.

Điều kiện thứ ba: Văn tự, không luận là Phật kinh, là văn tự thế gian, nếu chưa được sự đồng ý của ông thì không được xem. Tôi muốn xem thứ gì thì phải báo cáo với ông trước, ông gật đầu mới được, không gật đầu thì không được xem.

Không cho phép bạn nghe, không cho phép bạn xem, hoàn toàn nghe một mình ông chỉ đạo, ông hoàn toàn gánh lấy trách nhiệm đối với tôi. Tôi sau cùng suy xét, tôi vẫn là tiếp nhận, tiếp nhận thì lưu lại Đài Trung. Ba tháng sau liền cảm nhận được thọ dụng. Được thọ dụng gì? Tâm thanh tịnh. Rất nhiều thứ không cho phép xem, không cho phép nghe, thì tâm liền thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì sanh trí tuệ. Đây là cách dạy học của người xưa Trung Quốc.

Chúng tôi lúc đó nghe ba điều kiện này của lão sư, cảm thấy lão sư quá ương ngạnh, dường như trong mắt không người. Đến mười mấy năm sau, hơn hai mươi mấy năm sau, tôi đến Singapore gặp được pháp sư Diễn Bồi, cũng là người bạn cũ. Ông nói với tôi, ông là xuất gia từ nhỏ, tiểu Sa Di ở dưới hội của lão hòa thượng Đế Nhàn, lão hòa thượng cũng là nói ba điều này. Tôi mới hoát nhiên đại ngộ, không phải là chuyên lợi, chỉ của mình lão sư Lý, thì ra là giáo học của tổ tông ngày trước, đời đời kiếp kiếp đều là tuân thủ cái qui củ này. Nếu bạn không nghe lời thầy thì bạn đi theo ông ấy làm gì, còn nghe ông ấy thì phải chân thật nghe lời ông ấy. Còn nếu bạn nghe hai người thì bạn liền sẽ sanh ra nghi vấn, nghe ba người bốn người thì loạn lên rồi, không nên, tuyệt đối không nên. Chỉ có thể nghe một người, lão sư hoàn toàn có trách nhiệm đối với bạn, nếu bạn nghe nhiều thì lão sư không chịu trách nhiệm. Vậy thì đó là gì? Là bạn đến dự thính. Bạn cái gì cũng nghe, đầu óc loạn lên, tâm không thể định lại, không thể tịnh được, cần phải chuyên nhất mới được.

Sau khi tôi hoàn toàn tiếp nhận những điều kiện của lão sư, sau cùng thì lão sư tuyên bố có kỳ hạn. Không phải không kỳ hạn, mà có kỳ hạn, thời gian bao lâu? 5 năm, trong 5 năm bạn nhất định phải tôn trọng, ngoài 5 năm giống như tốt nghiệp rồi, liền mở rộng. Tôi sâu sắc được lợi ích. Đến năm thứ 5 tôi báo cáo với lão sư, tôi nói “lão sư con còn muốn giữ thêm 5 năm”, lão sư cười lên. Giữ lấy nguyên tắc của lão sư, cắm chặt cái gốc của chính mình, 5 năm tôi cảm thấy thời gian không đủ, cho nên tôi dùng mười năm, tôi nếm được cái mùi vị này. Hiện tại người thông thường không có người đạt được điều kiện này.

Lão sư muốn xem xét học trò thì không gì khác ngoài một điều kiện. Điều kiện gì vậy? Chính là thành thật nghe lời thật làm. Nếu bạn có thể đạt được điều kiện như vậy, họ bằng lòng dạy bạn.

Duyên phận của tôi với lão sư Phương, cũng là rất đặc thù. Không quen biết với thầy, không có người giới thiệu, tôi xem thấy một số tư liệu giới thiệu về thầy, biết được con người này là nhà triết học đương thời, danh tiếng rất cao. Vừa xem qua biết thầy là người Đồng Thành, đồng hương, tôi liền rất mạo muội viết gửi cho thầy một lá thư, gửi 1 thiên văn chương cho thầy xem, duy nhất chỉ có một mục đích, chính là hy vọng thầy đồng ý có thể cho tôi đến trường học dự thính nghe bài thầy giảng. Thư tôi gửi đi 1 tuần, thầy gửi thư trả lời tôi, hẹn tôi đến nhà thầy để gặp mặt. Đến nhà thầy gặp mặt, đây là đồng hương, nói chuyện quê nhà, tôi còn nhớ được chút ít đối với quê hương. Thầy hỏi học lực của tôi, tôi nói với thầy thời kỳ kháng chiến tôi lưu lạc khắp nơi, không cách gì đi học, chỉ lo chạy nạn, giặc giã truy đuổi phía sau, thất học 3 năm, ba năm không có đi học, cho nên tôi chỉ có tốt nghiệp sơ trung, cao trung học được nửa năm thì đến Đài Loan, tiếp theo không có cơ hội để đi học, đến Đài Loan lạ đất lạ người, chỉ một mình, phải dựa vào lao lực của chính mình để sống, vô cùng khổ cực. Lão sư hỏi tôi “lá thư anh viết, viết cái thiên văn chương này, học sinh đại học chúng ta không thể viết ra được”, cho nên ông mới hỏi học lực của tôi, xem tôi có lừa dối ông không? Tôi nói “không có”. Tôi nói với ông rằng tuy là tôi thất học ba năm, thế nhưng ưa thích đọc sách, cả đời tôi không rời khỏi quyển sách, hoàn toàn dựa vào tự học. Nói chuyện hơn một giờ đồng hồ, sau cùng ông nói với tôi;

– Trường học hiện tại không như 64 năm về trước (tôi lúc đó 26 tuổi) tiên sinh trong trường không giống tiên sinh, học trò không giống học trò, anh muốn đến trường học để nghe giảng, anh sẽ thất vọng lớn.

Ngay lúc đó tôi nghe không hiểu, tôi cho rằng lão sư hoàn toàn cự tuyệt, không để tôi được đến trường học để nghe giảng, cho nên biểu hiện rất ảo não, rất đau lòng. Chúng tôi trầm mặc mất sáu bảy phút, rồi ông nói:

– Như vậy tốt hơn là mỗi tuần chủ nhật anh đến nhà của tôi đây.

Chúng tôi ước định từ 9 giờ rưỡi đến 11 giờ rưỡi, hai giờ đồng hồ, mỗi tuần chủ nhật đến nhà của ông, ông dạy cho tôi hai giờ đồng hồ, bài của tôi là học được từ trong nhà của thầy. Vì sao vậy? Tôi nhiều năm sau mới hiểu rõ ra, lão sư ở trong trường lên lớp giảng bài, không giảng những thứ chân thật. Tại vì sao không giảng? Không có người học, chính là điều mà lão sư đã nói “học trò không giống học trò” nên lão sư dù muốn dạy cũng uổng phí. Vậy thì tại sao phải lên lớp? Ông lấy việc dạy này là chức nghiệp, vì ông không dạy học thì không thể sống, nên ông phải dựa vào việc này để trải qua ngày tháng. Thế nhưng học trò không có người nào chân thật muốn học. Còn như chân thật muốn học thì bạn thấy đấy, ông mở lớp dạy đặc biệt, bảo tôi đến nhà của ông để lên lớp, hơn nữa không nhận học phí, chân thật dạy bạn. Có thể nói ông chân thật là lão sư tốt, xem thấy học trò chân thật có thể dạy được thì không bỏ rơi. Những gì thầy có đều có thể truyền lại “bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Giáo huấn của người xưa, một người ở thế gian, quan trọng nhất là cái gì? Phải có truyền nhân. Đạo của bạn, sự nghiệp của bạn phải có người kế thừa, từng đời từng đời truyền lại, vậy mới có thể xứng đáng được với cha mẹ, xứng đáng với tổ tiên, xứng đáng với lão sư. Nếu như không truyền lại, thì bạn chính mình dù có làm được huy hoàng hơn, nhưng khi bạn chết rồi thì tất cả liền xong, chẳng còn gì. Đây chính là đại bất hiếu, nên bất kỳ một vị lão sư nào cũng muốn có người truyền pháp. Nhưng đến nơi đâu để tìm? Có thể gặp, nhưng không thể cầu. Học trò tìm lão sư khó, lão sư tìm học trò càng khó, không tìm được. Thỉnh thoảng thầy phát hiện ra một hai học trò, thầy xem họ như trân bảo, hy vọng họ có hằng tâm, có tâm nhẫn nại, có thể truyền đạo của mình cho họ, truyền pháp của mình cho họ. Tôi sau nhiều năm thường hay nghĩ đến việc này, tại vì sao lúc đó thầy không để tôi đến trường học để nghe giảng, sau mới hiểu được ý của lão sư, từ chỗ này mà cắm gốc. Về sau chuyên công Phật pháp, ông nói với tôi, “triết học Phật kinh là đỉnh cao nhất của triết học thế giới”.

Thời gian sau đó là Đại Sư Chương Gia chỉ đạo tôi, cũng là mỗi tuần lễ từ một đến hai giờ đồng hồ dạy tôi. Học trò chỉ có một mình tôi, một thầy dạy một trò.

Đến khi tham gia lớp học kinh của lão sư Lý, ngài chánh thức mở lớp, có khoảng hơn hai mươi học trò, thông thường ngài giảng kinh phổ thông để tiếp dẫn sơ cơ. Ngài có thể giảng cho hai ba mươi người, nhưng thâm nhập kiên trì đến cùng thì không nhiều, chỉ có năm sáu người, đến sau cùng chỉ sót lại hai ba người là vẫn kiên trì. Có thể thấy được sự việc này không dễ dàng.

Chuyên tu, chuyên hoằng, niệm Phật tam yếu là “không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, miệt mài không lơi, lưu thông sớ chú, rộng kết thắng duyên”. Chúng ta học tập tổ sư Ấn Quang, tổ sư cả đời tiếp nhận cúng dường của bốn chúng đồng tu, tại gia hai chúng, xuất gia hai chúng, nhưng những cúng dường đó ngài không mang đi cải thiện đời sống của ngài, mà ngài hoàn toàn dùng vào in kinh hoằng pháp lợi sanh và cứu tế tai nạn, nhưng chủ yếu là in kinh, còn khi gặp có tai nạn to lớn, từ trong số tiền in kinh ngài trích ra một phần để cứu tai. Ấn Tổ dạy chúng ta cái phương pháp này, cái phương pháp này hay, tiền từ đâu mà có? tiền từ bố thí mà có, càng thí càng nhiều.

Trích trong:
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú – Giảng lần thứ 4, năm 2014
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 1

Bài viết cùng chuyên mục

Công phu niệm Phật chẳng đắc lực là vì sao?

Định Tuệ

Nguyện thứ sáu: Thỉnh chuyển pháp luân

Định Tuệ

Quỷ thần cũng muốn nghe giảng kinh, đặc biệt là Kinh Địa Tạng

Định Tuệ

Sám hối nghiệp chướng: Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nguyện thứ tư

Định Tuệ

Bốn Cõi Tịnh Độ

Định Tuệ

Gieo nhân thiện được quả thiện, gieo nhân ác nhất định có ác báo

Định Tuệ

Những dự bị cần thiết cho lúc lâm chung

Định Tuệ

Cách chép Kinh Địa Tạng cầu con như thế nào cho linh nghiệm?

Định Tuệ

Tại sao phải hồi hướng công đức sau khi tụng Kinh, niệm Phật?

Định Tuệ