Ngài đã có đại nguyện rằng: “Nếu chưa độ hết chúng sanh, tôi thề không chứng quả Bồ Đề, và nếu chúng sinh còn khổ trong Địa ngục, tôi nguyện không thành Phật”.
Bồ Tát Địa Tạng là một trong sáu vị Bồ Tát của Phật giáo Đại thừa. Năm vị còn lại là Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Di Lặc Bồ Tát.
Bồ Tát Địa Tạng là một vị Bồ Tát đại từ đại bi thệ nguyện độ thế rất rộng lớn. Ngài là giáo chủ của cõi U Minh. Địa Tạng có nghĩa an nhẫn, bất động như đại địa; tư duy sâu xa kín đáo như kho tàng bí mật.
Cũng có người lý giải nghĩa của chữ “Địa” nương theo Kinh Địa Tạng có viết: “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Vì cách sử dụng từ ngữ trong Kinh điển hết sức sát nghĩa và rõ ràng nên “Bổn” là Bổn tâm, “Tôn” là tôn quý, “Địa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Như vậy, chỉ có Bổn tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tạng tâm địa. Chỉ có Bổn tâm mới làm chủ được cõi U Minh, tức là làm chủ cõi địa ngục tham – sân – si của chính mình.
Đức Bồ Tát Địa Tạng đã phát đại hạnh nguyện đó là độ tận hết tất cả chúng sanh trong ba cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Ngài đã có đại nguyện rằng: “Nếu chưa độ hết chúng sanh, tôi thề không chứng quả Bồ Đề, và nếu chúng sinh còn khổ trong Địa ngục, tôi nguyện không thành Phật”.
Hạnh nguyện đó cũng xuất phát từ lòng hiếu thuận với song thân. Do đại nguyện ấy, Ngài được gọi là “Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Do đại nguyện ấy, Ngài thường phân vô lượng thân để hóa độ giải thoát cho vô lượng chúng sinh thoát khổ trong Địa ngục; trải qua vô lượng kiếp rồi, Ngài vẫn còn làm Phật sự của một vị Bồ Tát trong việc cứu khổ chúng sinh.
Hình tượng Bồ tát Địa Tạng được tôn dựng trong các Chùa, Tháp thờ tro cốt, hương linh ở các tự viện, với mong muốn rằng Bồ Tát Địa Tạng có thể dẫn dắt hương linh của chúng ta thoát khỏi chốn u đồ tối tăm, về với ánh sáng Phật pháp; thoát khỏi khổ đau luân hồi sinh tử.
Không chỉ được xem là vị Bồ Tát của các linh hồn dưới Địa Ngục, Địa Tạng Vương còn được xem là bị Bồ Tát hộ mệnh của các vong linh trẻ em yếu ớt, Ngài luôn hết lòng an ủi, bảo vệ và giảng giải cho các em tạo công đức để trẻ em bước qua sông và được đầu thai thành kiếp khác.
Ý nghĩa hình tượng và biểu pháp của Bồ Tát Địa Tạng
Hiện tướng Tỳ Kheo, trong hàm ý muốn độ tận chúng sanh điều trước tiên tự mình phải thoát khỏi sự ràng buộc của sanh tử, mà muốn như vậy quả vị A La Hán không thể không chứng đắc.
Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen tượng trưng cho Thập Nhị Nhân Duyên, tám khoen tượng trưng cho Bát Chánh Đạo, sáu khoen tượng trưng cho pháp Lục Độ, bốn khoen tượng trưng cho Tứ Thánh Đế. Nếu một vị hành Đại Thừa Bồ Tát mà thiếu một trong các pháp này thì khó có thể thành tựu đạo Bồ Đề.
Tay trái Bồ tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Biểu thị Bồ tát ngoài tâm đại bi ra cần phải cụ túc trí tuệ, vì trí tuệ là ánh sáng quang minh nhất, đủ công đức và oai lực soi sáng tất cả khắp chốn U Minh khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng trí tuệ đều được thoát khỏi khổ đau.
Đức Địa Tạng đội mão Tỳ lô, biểu thị Bồ tát thể nhập Pháp Giới Tạng Thân, thập phương cụ tướng, không nơi nào trong pháp giới mà không có hình tướng của Ngài, trong tất cả mười phương không nơi nào có chúng sanh khổ mà Ngài không đến.
Mão Tỳ lô hay còn gọi là mão Ngũ Phật. Trong Kinh Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật Quyển Trung chép: “Ngũ Phật Bảo Quan còn gọi là mão Ngũ Phật, mão Ngũ Trí, mão Ngũ Bảo Thiên Quan hay là Mão Quyền Đảnh Bảo Quan, đây là mão báu của Đức Đại Nhựt Như Lai, Bồ tát Kim Cang Tát Đỏa, Ngài Hư Không Tạng Bồ Tát đội trên đầu, trên chính giữa mão báu có để hình tượng Ngũ Phương Ngũ Phật dùng để biểu thị đức tướng của Ngũ Trí viên mãn”.
Bồ Tát cỡi con Đề Thính, Đề Thính là con linh thú tương truyền rằng hồn của nó ở trong đất, là linh vật của U Minh Giới nên hiểu được Tâm chúng sinh, khi nằm mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất. Biểu trưng cho ý niệm “Nhơn Tâm sanh nhất niệm, Thiên Địa tất giai tri”. Khi lòng người khởi một niệm thì Trời Đất Quỷ Thần đều hay biết. Đây là chỉ cho Bồ Tát là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an trụ trong chánh pháp, thành tựu cảnh giới thiền định, nhiếp phục được tâm mình không còn bị vọng tâm hay thú tánh vật dục làm cho phiền não. Cho nên, tâm của Ngài thông suốt vạn pháp. Bởi vì tất vạn pháp đều từ tâm sanh, tâm tịnh thì pháp tịnh, tâm nhiễm thì pháp nhiễm.
Bồ tát Địa Tạng ngồi trên lưng con Đề Thính thể hiện Căn Bản Trí của Ngài hiển bày cụ túc thanh tịnh. Nên có thể nghe được tất cả âm thanh khổ đau trong địa ngục mà phát tâm tế độ, đúng theo sự phó chúc của đức Phật trong kinh Địa Tạng: “Nếu có chúng sanh nào sắp đọa địa ngục khi vừa đến cửa ngục có thể niệm một danh hiệu Phật hay Bồ tát, thời Ông nên dùng thần lực phá tan địa ngục ấy chớ để cho họ ở trong địa ngục một phút giây nào cả. Huống là để cho họ phải chịu khổ đau trong ngàn muôn ức kiếp?”.
Bồ tát Địa Tạng, vị Bồ Tát cứu độ của pháp giới chúng sinh trong diêm Phù Đề. Ngài đã đến với thế giới Ta bà ngũ trược ác thế này, trong một tâm nguyện là cứu độ tất cả chúng sanh đang lặn hụp đắm chìm trong biển khổ sanh tử, đến cảnh giới an lạc giải thoát. Chúng sanh ở cõi Ta bà này đầy dẫy những điều cang cường, nan điều nan phục mà khi nói đến ai cũng phải thối tâm, thế mà Bồ tát vẫn kiên trì không thối chuyển tâm nguyện độ sanh của mình, không bao giờ có ý niệm lìa bỏ.
Nguyện lực của Ngài thật là không có ngôn từ có thể diễn tả cho hết, hình tướng của Bồ Tát đâu đâu cũng cụ túc hàm ý cũng như bi nguyện, chúng con chỉ có thể dùng hai câu kệ trong bài tán phật để thể hiện tâm ý cũng như sự kính ngưỡng đối với ngài: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”. Ngưỡng nguyện Bồ Tát thùy từ chứng giám.
Địa Ngục Vị Không Thệ Bất Thành Phật, Chúng Sanh Độ Tận Phương Chứng Bồ Đề.
Nam Mô Đại Bi Đại Nguyện Đại Thánh Đại Hiếu Đại Từ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát!
(Sưu tầm & trích lục)
Tâm Hướng Phật/St!