Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Ý nghĩa của Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện là gì?

Tam quy, Ngũ giới và Thập thiện là một trong những nội dung quan trọng của giáo lý Phật giáo, có vai trò không chỉ làm cơ sở để ổn định tổ chức giáo hội, Tăng, Ni, chức sắc tôn giáo là còn là những điều răn dạy đối với các tín đồ Phật tử.

1. Ý nghĩa của Tam quy

Tam quy nói cho đủ là quy y Tam Bảo. Quy y Tam Bảo còn gọi là pháp Tam quy y. Quy nghĩa là quay về, trở về; y nghĩa là nương tựa. “Quy y” là quay trở về nương tựa, “Tam Bảo” là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Như vậy, Quy Y Tam Bảo nghĩa là quay về nương tựa Phật, nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Bạn Quy y Tam Bảo thì trở thành Phật tử, chứ không phải Quy y là xuất gia cạo tóc lên chùa đâu nhé, vụ này rất nhiều người hiểu lầm.

Đức Phật là vị thầy đã khám phá ra và tuyên bố với thế giới luật cứu độ, đó là sự giải thoát khỏi nô lệ, sự thù hận và sự thiếu hiểu biết của chính mình. Pháp là luật pháp hay sự giải thoát chân thực và thực tế, và Tăng là cộng đồng Phật tử hoặc những người có tâm hướng về Phật.

Quy y Tam Bảo là bước đi chính thức đầu tiên trên con đường Phật giáo. Quy y là chúng ta tin vào Phật giáo và chúng ta đã trở thành đệ tử của Tam Bảo – Phật, Pháp và Tăng. Khi chúng ta quy y Tam Bảo, nó định hướng đức tin của chúng ta.

Khi một người quyết định quy y Tam Bảo, nó thể hiện một sự cam kết mạnh mẽ hơn trong cuộc đời để học hỏi, thực hành và thể hiện đức tính của đức Phật, Pháp và Tăng.

Vàng, bạc, kim cương và ngọc trai đều được coi là kho báu trong thế giới trần tục. Trong thế giới của Phật giáo, Đức Phật, Pháp và Tăng là những kho báu của chúng ta.

Bằng cách cam kết với Tam Bảo, chúng ta gặt hái được những lợi ích của những viên ngọc cao quý như vậy, cuối cùng mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích có ý nghĩa hơn bất kỳ loại đá quý nào có thể cung cấp.

Đức tin là một yếu tố giảng dạy quan trọng trong cả truyền thống Phật giáo Nguyên Thuỷ và Phật giáo Đại Thừa. Trái ngược với nhận thức các quan niệm về đức tin của phương Tây, đức tin trong Phật giáo phát sinh từ kinh nghiệm và lý luận tích lũy. Niềm tin vào đạo Phật là tập trung niềm tin vào Tam Bảo.

Quy Y Phật

Đức Phật đại diện cho sự giác ngộ. Nó đề cập đến một người thức tỉnh, người nhận ra bản chất thật của cuộc sống, người sẽ dạy cho chúng sinh nhận thấy sự thật đó và giải phóng họ bằng con đường được hướng dẫn đầy đủ.

Viên ngọc đầu tiên của Tam Bảo là Phật. Khá dễ nhớ, viên ngọc đầu tiên này không chỉ đơn thuần là người sáng lập Phật giáo. Vâng, điều đó là chính xác, tuy nhiên, nó có ý nghĩa rộng hơn.

Vì Đức Phật được cho là người đầu tiên thực sự hiểu được con đường giác ngộ, viên ngọc quý này cũng đồng nghĩa với việc hoàn thành giác ngộ. Vì vậy, khi một người Phật tử tuyên bố quy y Phật, có nghĩa là gửi gấm thân xác và tâm trí mình cho Đức Phật.

Nương tựa vào Phật không phải là để tìm sự an toàn trong một người mạnh mẽ. Nơi ẩn náu trong tình huống này giống như di chuyển đến một quan điểm mới, với một nhận thức mới về khả năng trong tất cả chúng ta.

Bằng cách trú ẩn trong Đức Phật, chúng ta liên kết với khả năng trở thành một vị Phật, để tìm kiếm khả năng đánh thức những gì mà đức Phật đã trải qua, những kinh nghiệm quý báu. Viên ngọc quý này nhắc nhở chúng ta tìm thấy bản chất Phật trong chúng ta.

Quy y Phật cũng có nghĩa là cam kết đạt được Phật Quả – Giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh, có nghĩa là bạn muốn trở thành một người nhìn thấy bản chất của thực tại hoàn toàn rõ ràng, đúng như nó đang tồn tại, và sống một cách tự nhiên theo đúng tầm nhìn đó. Đây là mục đích của đời sống tinh thần Phật giáo, đại diện cho sự chấm dứt của đau khổ cho bất cứ ai đạt được nó.

Quy Y Pháp

Viên ngọc thứ hai của Tam Bảo là Pháp. Rất đơn giản, đây là những lời dạy của Đức Phật. Đối với Phật tử, đó là những con đường dẫn đến chân lý. Làm theo những hướng dẫn để bước đi đúng đắn trên con đường giác ngộ. Dựa trên Tứ diệu đế của đức Phật, hoặc bốn đức tin cốt lõi mà theo đó Phật tử dựa trên, Pháp được biểu tượng bằng bánh xe Phật giáo.

Pháp là con đường đi theo lời dạy của Đức Phật và cuối cùng sẽ dẫn đến sự giác ngộ. Pháp dạy chúng ta lòng bi mẫn đối với bản thân và người khác thông qua sự hiểu biết về Tứ Diệu Đế, nó dẫn đến sự giải thoát khỏi sợ hãi và vô minh.

Con đường bao gồm việc chấp nhận lời dạy của Đức Phật và áp dụng sự hiểu biết đó vào cuộc sống hằng ngày. Nói cách khác, nếu bạn làm theo những giáo lý này, bạn sẽ tìm thấy nơi ẩn náu trong Đức Phật.

Quy Y Tăng

Viên ngọc quý thứ ba và cuối cùng của Tam Bảo là Tăng Đoàn. Trong các giáo lý ban đầu của Phật giáo, Tăng đoàn là một thuật ngữ rất độc đáo dùng để chỉ các nhà sư, nữ tu và thầy giáo của Phật giáo. Tuy nhiên, khi đạo Phật phát triển, thuật ngữ đã được mở rộng bao gồm bất kỳ nhóm nào kết nối với nhau để thực hành về các giáo lý của Phật giáo.

Tăng trong tiếng Phạn có nghĩa là “cộng đồng trong sự hòa hợp”. Nó đề cập đến cộng đồng của tu sĩ (chư tăng ni) sống cùng nhau trong sự hòa hợp và cam kết cuộc sống của họ để học hỏi và giảng dạy pháp.

Tăng đoàn là một cộng đồng hài hòa theo hai cách: Họ có “sự hòa hợp về nguyên tắc” và “sự hòa hợp trong thực tế.” Về nguyên tắc, sự hoà hợp này có nghĩa là tất cả các tu sĩ đều nhận ra cùng một sự thật. Sự hoà hợp trong thực tế có nghĩa là hành động vật chất, lời nói và tinh thần của các tu sĩ phải tuân thủ sáu điểm của sự hòa hợp tôn kính này:

  1. Sự hoà hợp trí tuệ bằng cách chia sẻ cùng một sự hiểu biết.
  2. Sự hòa hợp đạo đức thông qua việc chia sẻ cùng một giới luật, như vậy mọi người đều phải tuân thủ các quy định như nhau.
  3. Sự hòa hợp kinh tế thông qua việc chia sẻ mọi thứ vật chất và lợi ích bằng nhau.
  4. Sự hòa hợp tinh thần thông qua hạnh phúc chia sẻ, thông qua một cam kết chung.
  5. Sự hòa hợp bằng cách tránh những tranh chấp, bằng cách sử dụng lòng tốt trong bài diễn văn của một người.
  6. Sự hòa hợp về thể xác qua việc sống cùng nhau, như vậy mọi người đều vui vẻ và không vi phạm nhau.

Tăng đoàn là một ngọn lửa lớn để tu luyện bản thân, kỷ luật nhân cách, và làm dịu tâm trí thành chánh kiến, như vậy, đây là một phương pháp tự lợi. Tăng đoàn còn có quyền truyền Pháp để giúp chúng sinh giải phóng bản thân, và ý nghĩa này có lợi cho người khác. Chúng ta có thể nhìn thấy tầm quan trọng của Tăng đoàn trong mỗi lĩnh vực này.

Nói một cách đơn giản, Đức Phật giống như một vị bác sĩ, Pháp như thuốc chữa bệnh, và Tăng đoàn giống như một nhóm y tá. Mỗi trong ba nhân tố này đều là những nhân tố quan trọng để giải phóng chúng sinh khỏi đau khổ. Không có thể thiếu nhân tố nào.

Chỉ khi một bệnh nhân có một bác sĩ giỏi, một loại thuốc thích hợp, và các y tá lành nghề, bệnh mới có thể được chữa trị. Điều này cũng đúng trong cuộc sống, chỉ khi dựa vào Đức Phật, Pháp và Tăng chúng ta có thể vui vẻ, giải phóng và thoát khỏi khổ đau.

Đức Phật, Pháp và Tăng được gọi là “đá quý” để thể hiện phẩm hạnh tối cao của họ, vì chúng vượt qua giá trị của tất cả các báu vật thế giới. Họ có thể giải toả nỗi đau tinh thần của chúng ta và dẫn chúng ta đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

Điều này rất quan trọng vì Phật giáo không phải là một triết học hoặc tín ngưỡng trừu tượng, mà nó là một cách để tiếp cận cuộc sống và do đó, nó chỉ có ý nghĩa khi nó được thể hiện trong con người. Và theo nghĩa rộng nhất, Tăng đoàn có nghĩa là tất cả các Phật tử trên thế giới và tất cả những người hướng tâm trí của mình theo Phật giáo trong quá khứ và tương lai.

Ý nghĩa của Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện là gì?

2. Ý nghĩa của Ngũ giới

Sau khi chúng ta quy y Tam Bảo, cần phải thực hành những lời Phật dạy, những giới điều để ngăn ngừa việc ác, thúc liễm thân tâm, trau dồi đạo đức, nhân cách của người Phật tử. Khi đã quy y Tam Bảo, chúng ta chính thức là đệ tử của Phật. Đệ tử Phật phải học theo hạnh Phật, con phải giống cha. Phật là người đạo đức mẫu mực, chúng ta cũng phải có đạo đức. Đạo đức có từ oai nghi giới luật. Do vậy, người Phật tử phải giữ gìn năm giới cấm căn bản là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Năm giới cấm này là nền tảng xây dựng tòa nhà hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Phần lớn các giới điều trong Phật giáo đều bắt đầu bằng chữ “không”, trong đó có năm giới, tạo cảm giác tiêu cực, ép buộc hay cấm đoán mất tự do. Do vậy, thay vì nói “không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không dùng các chất làm say gây nghiện”, theo lời đức Phật giải thích, ta có thể mượn văn phong của thiền sư Nhất Hạnh diễn dịch năm giới thế này:

Giới thứ nhất: không sát sinh

“Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con”.

Giới thứ hai: không trộm cắp

“Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật cua con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và muôn loài”.

Giới thứ ba: không tà dâm

“Ý thức những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa”.

Giới thứ tư: không nói dối

“Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết rõ. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể”.

Giới thứ năm: không dùng những chất làm say và gây nghiệm

“Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù và sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội”.

Để giữ gìn hạt giống trí tuệ, bảo vệ sức khỏe và hạnh phúc của bản thân, đức Phật dạy người Phật tử không được uống rượu. Đó là giới thứ năm người Phật tử cần phải giữ.

3. Ý nghĩa của Thập thiện

Thập thiện hay còn gọi là thập thiện nghiệp, thập thiện giới, thập thiện pháp. Tên gọi khác nhau là do tùy cách diễn nghĩa theo các phương diện ứng dụng. Chẳng hạn như khi chỉ nói riêng pháp số thì dùng danh từ thập thiện để chỉ cho mười điều thiện bao gồm: không sát sinh; không trộm cắp; không tà dâm; không vọng ngữ; không ỷ ngữ; không lưỡng thiệt; không ác khẩu; không tham lam; không sân giận; không si mê.

Người Phật tử tại gia phát tâm học Phật ngoài những điều căn bản quy y Tam bảo thọ trì năm giới cấm để trở thành đệ tử của Đức Phật đồng thời trở thành tín đồ chân chánh của Phật giáo, nếu như nhân duyên đầy đủ chúng ta nên tiến thêm một bước nữa, nên thọ trì Thập thiện giới pháp, để gieo duyên với Bồ tát đạo và trồng căn lành để đời sau được sinh lại làm người đầy đủ phước báo, hình tướng trang nghiêm, thông minh trí tuệ và điều quan trọng nhất là được gặp Phật pháp, thọ trì tịnh giới, tinh tấn tu trì đạt đến giải thoát giác ngộ.

Hòa thượng Thánh Nghiêm trong “Bồ Tát Giới Chỉ Yếu” dạy: “là người phàm phu trong dục giới, nếu như không thọ trì cấm giới, như muốn ngày sau sinh lại làm người là việc đã hết sức khó khăn, huống chi là giải thoát sinh tử cho đến thành Đẳng Chánh Giác.”

Trong “Thanh Tịnh Đạo Luận” chép: “Ưu bà tắc, Ưu bà di thường thọ trì Ngũ Giới, nếu như có khả năng nên học tu thập giới… đây là giới pháp của người tại gia.”.

Trong Kinh “Thập Thiện Nghiệp Đạo” chép: “Bồ tát có một pháp có thể đoạn trừ hết thảy các nghiệp khổ của ác đạo, những gì là một. Trong suốt ngày đêm luôn luôn nhớ nghĩ quan sát các điều lành, làm cho niệm lành ngày một thêm lớn, không còn một chút mảy may nào của tạp niệm bất thiện.

Như thế khiến cho các ác nghiệp vĩnh viễn bị đoạn trừ, thiện pháp được viên mãn. Thường được thân cận chư Phật, Bồ tát cùng với thánh chúng. Thiện Pháp được nói đây. Điều mà Trời, Người, Thinh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Vô Thượng Bồ Đề đều tu theo pháp này… tức là mười điều lành vậy.”

Mười điều lành đối với Phật giáo có tính chất vô cùng quan trọng trong vấn đề cốt lõi của Phật giáo về tín ngưỡng, ác nghiệp và thiện nghiệp, là duyên khởi của tư tưởng “Nghiệp Cảm”.

Ác thì phải chịu khổ báo, thiện thì được quả lành, duyên khởi lập luận “Nhân quả” của Phật giáo được hình thành từ chân lý này. Trong Luận “A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa” Phẩm Bất Thiện chép: “Tu hành mà tạo nghiệp sát sinh thì sinh vào Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, cho đến tà kiến cũng như vậy.”. Trong Kinh “Biệt Thích Tạp A Hàm” chép: “Như các thiện pháp này, là pháp thanh tịnh của mười nghiệp lành, nếu như người nào có thể tu hành, nhất định được sinh thiên”.

Mười nghiệp lành là nền móng vững chắc của hạnh tu Bồ tát đạo trong Kinh “Thập Trụ” Phẩm Ly Cấu Địa chép: “Nói Bồ tát thường hộ trì mười nghiệp lành nhân vì tu mười Điều Lành có thể sinh làm người và trời…

Nếu như tu mười nghiệp lành thanh tịnh cụ túc, đối với chúng sinh khởi tâm đại từ bi, không lìa hết thảy chúng sinh mà cầu trí tuệ rộng lớn của Phật, đây là bậc đại thừa Bồ tát vậy… cho đến thanh tịnh các pháp Ba la mật, thâm nhập vào các hạnh lành rộng lớn… cho đến thành Phật.”

Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.

Người Phật tử sau khi thọ Tam quy, Ngũ giới, Bát quan trai giới thì nên tu tập thêm thập thiện nghiệp để làm hành trang, tư lương tối thắng cho mình giữa thế gian cát bụi, lắm nghiệt ngã và nhiều khổ đau này. Và thập thiện nghiệp ấy là gì?

Thứ nhất: Vĩnh viễn trừ bỏ nghiệp sát sanh các loài hữu tình

Thứ hai: Vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, dù là nhặt được hay của người khác

Thứ 3: Vĩnh viên từ bỏ niệm tà dâm, tà hạnh

Thứ 4: Vĩnh viễn từ bỏ nói dối, thêu dệt

Thứ 5: Vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo

Thứ 6: Từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ

Thứ 7: Từ bỏ lời nói nhảm nhí, phù phiếm

Thứ 8: Từ bỏ tham lam

Thứ 9: Từ bỏ sân hận, thù oán

Thứ 10: Từ bỏ tà kiến

Tâm Hướng Phật!

Bài viết cùng chuyên mục

Giới Luật là gì? Tầm quan trọng của giới luật

Định Tuệ

Gặp khó khăn nên hồi hướng như thế nào cho hợp lý?

Định Tuệ

Vì sao chúng ta phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà?

Định Tuệ

Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả

Định Tuệ

7 câu hỏi tìm hiểu về Pháp môn Tịnh Độ – HT Thích Giác Khang

Định Tuệ

Xuất trần là gì? Ý nghĩa xuất trần

Định Tuệ

Những công năng khi trì niệm Thần Chú Dược Sư

Định Tuệ

Có phương pháp gì để tiêu tai giải nạn, đón kiết hóa hung không?

Định Tuệ

Công đức và phước đức khác nhau như thế nào? 

Định Tuệ

Viết Bình Luận