Niệm Phật vào lúc nào? Niệm Phật không kể thời gian, không kể lúc. Đi, đứng, nằm, ngồi, thái rau, bửa củi… đều niệm Phật được. Vừa làm vừa niệm.
1. Niệm Phật đúng cách cần lưu ý những gì?
Để niệm Phật đúng cách, Phật tử cần chú ý phải dồn hết tâm trí, thành tâm hướng về Đức Phật A Di Đà và niệm danh hiệu của Ngài: Nam mô A Di Đà Phật hay A Di Đà Phật.
2. Tại sao chúng ta niệm Phật?
Chúng ta đừng nên nghĩ rằng niệm A Di Đà là vì Đức Phật đó có công năng lớn hơn những vị Phật khác. Bởi khi đã thành tựu quả vị Phật, các Ngài đều có mười danh hiệu như nhau, có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Nhưng vì sao chúng ta không chọn niệm một vị Phật nào khác ngoài Đức Phật A Di Đà?
– Vì Phật A Di Đà được chúng ta biết đến qua lời giới thiệu của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng ta niệm Phật là tôn trọng và nghe theo lời giáo huấn của vị Bổn sư của mình.
– Căn cứ trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà đều muốn tiếp dẫn chúng sanh về cõi Tây Phương an lạc. Trong đó có lời nguyện rằng:“ Tất cả chúng sanh 10 phương có lòng tin yêu về cõi ta nếu niệm từ một đến mười niệm mà ta không tiếp dẫn thì ta không thành Chánh giác, trừ ngũ nghịch.
– Căn cứ vào kinh A Di Đà nói rằng: Khi niệm Phật từ 1 ngày đến 7 ngày nhất tâm bất loạn sẽ được vãng sanh về Tây Phương.
– Căn cứ vào câu chuyện của hoàng hậu Vi Đề Hi, khi bà ngán ngẫm cảnh trần thế nhiều tranh đưa, con giết cha đoạt ngôi, bà đã hỏi Đức Phật cảnh giới thanh tịnh để tu hành hướng đến. Khi ấy Đức Phật đã hiện cảnh 10 phương chư Phật và bà đã chọn cảnh giới Tây Phương Cực Lạc để tu tập hướng đến. Lúc đó Đức Phật đã khuyên bà nên nhất danh chấp trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Vì thế, vào thời Đức Phật, danh hiệu Phật A Di Đà đã có mặt và có căn cứ rõ ràng trong sử sách.
– Dựa vào bài kinh cho rằng: Vào thời mạt pháp căn cơ chúng sanh cạn mỏng, vạn ức người tu ít người đắc độ, nương theo pháp môn Tịnh độ sẽ được giải thoát.
– Các tổ và thiền sư cũng khuyên chúng ta nên niệm Phật. Chẳng hạn như Thiên Như thiền sư dạy rằng: Vào thời mạt pháp, kinh sách diệt hết chỉ còn lưu lại câu A Di Đà Phật, nếu ai không tin đọa vào địa ngục.
Như thế, có rất nhiều lý do để chúng ta chọn pháp môn Niệm Phật và tin đây là một pháp môn mang đến sự an vui và sự vi diệu cho người tu tập.
Một câu niệm Phật lọt vào tai
Dứt nghiệp oan khiêng, dứt đọa đày
Đức phật Di Đà đài sen ngự
Tiếp người mê lộ thoát trần ai
3. Nên niệm Phật vào lúc nào?
Niệm Phật không kể thời gian, không kể lúc. Đi, đứng, nằm, ngồi, thái rau, bửa củi… đều niệm Phật được. Vừa làm vừa niệm. Đang nhổ cỏ lúa mà biết niệm Phật thì nhổ mấy mẫu ruộng cũng không biết mệt. Người niệm Phật phải nhớ câu “Tịnh niệm tương kế”, nghĩa là thời thời khắc khắc phải bám lấy câu “A-di-đà Phật”.
Lỡ quên niệm, khi vừa trực nhớ phải niệm liền. Ráng giữ tính liên tục của nó để trở thành một thứ nhu cầu sống như phải thở không thở không được vậy. Niệm Phật cho đến nhập tâm luôn thì tự nhiên lúc nào trong tâm mình cũng niệm Phật được. Có thế khi lâm chung mình sẽ niệm Phật được dễ dàng. Nghĩa là, chắc chắn mình được vãng sanh. Đại sư Ấn-Quang, vị Tổ thứ 13 của Tông Tịnh-Độ cho phép niệm Phật ngay trong lúc đi cầu nữa là khác, nhưng phải niệm thầm.
Nếu có dịp thuận tiện, trong gia đình cũng nên tổ chức giờ niệm Phật được thì rất tốt. Nên niệm lúc sáng sớm và tối là thời điểm thích hợp, vừa không mất việc làm ăn, vừa dễ nhóm họp. Buổi sáng sau khi niệm Phật nên phát nguyện vãng sanh, có thể đọc bài phát nguyện này:
Nguyện sanh Cực-lạc cảnh Tây-phương
Chín Phẩm Hoa Sen là cha mẹ.
Hoa nở thấy Phật chứng Vô-Sanh
Bồ-tát Bất thối là bạn lữ.
Hoặc đơn giản cứ nguyện như vầy:
“Nam-mô A-di-đà Phật, con xin nguyện cầu hết báo thân này được sanh về Tây-phương Cực-lạc. Ngưỡng nguyện A-di-đà Phật đại từ đại bi phóng quang tiếp độ”.
Hoặc nguyện đại ý như vậy. Nên chép câu nguyện thành bài để nguyện thuộc lòng. Khóa tụng chiều thì hồi hướng công đức:
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh-Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh nước Cực-lạc.
Thành tâm thì có cảm ứng.
4. Những yếu tố quan trọng của pháp môn Niệm
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương sanh về Tịnh Ðộ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Vì thế, sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu Tịnh Ðộ.
5. 10 công đức niệm Phật
Trong kinh nói: “ Người nào chí tâm niệm Phật, được mười món công đức như sau:
- Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức A-Di-Đà phóng quang nhiếp thọ.
- Thường được các vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm thủ hộ.
- Ngày đêm thường được chư Thiên cùng Đại lực Thần tướng ẩn hình ủng hộ.
- Tất cả Dạ-xoa, ác quỉ, rắn độc, thuốc độc đều không thể làm hại.
- Không bị những tai nạn: nước, lửa, đao, tên, gông, xiềng, lao ngục, giặc cướp, oan gia, cùng các thứ chết dữ.
- Những tội đã làm thảy đều tiêu diệt, những kẻ chết oan vì mình đều được giải thoát, không còn kết oán rằng buộc.
- Ban đêm nằm ngủ thường thấy điềm lành, hoặc thấy sắc thân thắng diệu của Phật A-Di-Đà.
- Tâm thường vui vẻ, sắc thường tươi nhuận, khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp lợi ích.
- Mọi người trông thấy đều vui mừng, cung kính hoặc lễ bái cũng như kính Phật.
- Khi mạng chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được Tây phương Tam-Thánh tiếp dẫn sanh về Tịnh-Độ hưởng sự an vui không cùng!”
Tâm Hướng Phật/Th!