Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Tam Thế Phật gồm những ai? Ý nghĩa thờ Tam Thế Phật

Trước tiên, chữ Thế trong tam thế có thể hiểu là Thời. Vậy Tam Thế Phật nghĩa là Phật 3 thời: Quá khứ, hiện tại và vị lai.

Tam thế Phật gồm những vị nào?

Trước tiên, chữ Thế trong tam thế có thể hiểu là Thời. Vậy Tam Thế Phật nghĩa là Phật 3 thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Phật quá khứ đại biểu là Phật A Di Đà. Phật hiện tại đại biểu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn Phật tương lai đại biểu là Phật Di Lặc. Nói rộng ra theo nghĩa này thì Tam Thế Phật nghĩa là vô lượng vô biên vô số chư Phật mười phương.

1. Phật A Di Đà

Đức Phật A Di Đà là một vị vua trong truyền thuyết theo kinh điển Phật giáo Đại Thừa, người đã từ bỏ vương quốc của mình để trở thành một tu sĩ Phật giáo và có tên là Pháp Tạng, có nghĩa là “Kho Chứa Pháp”. Nhiều Phật tử thuộc trường phái Tịnh Độ thường xuyên niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” để nương tựa thân mình vào Phật A Di Đà để Ngài dẫn họ về cõi Tây Phương Cực Lạc sau khi chết.

Theo các kinh sách, Phật A Di Đà sở hữu công đức vô hạn phát sinh từ những việc tốt không biết bao nhiêu kiếp trước. “A Di Đà” có thể dịch là “Ánh Sáng Vô Hạn” do đó Phật A Di Đà thường được gọi là “Đức Phật Ánh Sáng”.

Được truyền cảm hứng bởi những lời dạy của Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Đức Phật A Di Đà đã lập ra 48 lời thề nguyện tuyệt vời để cứu độ chúng sinh. Lời thề thứ 18, là nền tảng của Tịnh Độ: “Nếu sau khi đạt được Phật quả, tất cả chúng sinh khát khao thành thực và đức tin để được tái sinh trong đất của tôi, niệm tên tôi 10 lần mà không được sinh ra ở đó, thì tôi không thể đạt được giác ngộ hoàn hảo.”

Kể từ đó, Phật A Di Đà sau 5 năm tu luyện, cuối cùng đã đạt được giác ngộ tối cao. Điều này có nghĩa là lời tuyên thệ từ bi và vĩ đại của Ngài giờ đây đã trở thành hiện thực, cõi Tây Phương Cực Lạc đã được thiết lập, đau khổ của chúng sinh sẽ được giải thoát nếu họ có đức tin để gọi tên Ngài.

2. Phật Thích Ca Mâu Ni

Phật Thích Ca Mâu Ni là vị ở chính giữa của bộ tượng, biểu trưng hiện tại hoặc là biểu tượng của thế giới Ta Bà. Ngài là Bổn Sư thị hiện ở thế gian đề giáo hoá chúng sinh, được tôn xưng là Phật Tổ Như Lai, Phật Đà hay Đức Thế Tôn.

Theo các tài liệu Phật Giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc giáo chủ của cõi Ta Bà. Ngài đã giác ngộ hoàn toàn, được chứng Thánh, biết mình là Phật vào tháng 4 năm 588 TCN. Ngài là bậc đạo sư giác ngộ viên mãn, nhìn thấy được kiếp trước của bản thân, của chúng sinh, sự hình thành và huỷ diệt của thế giới. Ngài biết mình sẽ không tái sinh một lần nào nữa và đã thoát khỏi quy luật sinh tử luân hồi của thế gian.

Theo ghi chép trong kinh Phạm Võng, ngài thị hiện ở thế giới này lần này là lần thứ 8000. Trước khi trở thành Phật, ngài vốn là một vị Thái tử của tiểu vương quốc Shakya, con trai vua (Tịnh Phạn) tên là Tất Đạt Đa. Ngài được tiên tri rằng sẽ trở thành bậc vĩ nhân vĩ đại, kèm theo một lời tiên đoán rằng ngài sẽ bỏ đi tu hành sau khi thấy “một người già, một người bệnh, một xác chết và một sa môn”. Để con trai không đi tu, Vua Suddhodana đã cho thái tử hưởng hết vinh hoa phú quý, không tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời.

Thế nhưng, trong một lần nộ khi đi qua bốn cửa thành, ngài nhìn thấy bốn hình ảnh gồm một người già yếu, một người bệnh tật, một tu sĩ và một xác chết. Ngài đã quyết định rời khỏi cuộc sống nhung lụa, giàu sang phú quý của mình để tìm đạo. Ngài là người phát hiện và khởi xướng con đường trung dung – Trung đạo thay vì ép xác khổ hạnh như các vị tu sĩ cùng thời.

Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng 49 năm để không ngừng nghỉ nói cho chúng sanh biết chân tướng của vũ trụ nhân sinh, có thể sớm ngày phá mê khai ngộ. Theo kinh điển Pali, Phật Thích Ca Mâu Ni tạ thế tám mươi năm. Vào mùa mưa năm 80 tuổi, Ngài đã dự đoán được bản thân sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa.

Hiện nay, hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni thường gặp là tóc búi to hoặc có cụm xoắn ốc, nhục kế trên đỉnh đầu, mắt mở ba phần tư. Ngài mặc áo choàng qua cổ hoặc áo cà sa, không có chữ vạn trước ngực. Phật Thích Ca ngồi kiết già trên toà sen, tay xếp ngay ngắn trên đùi, thường bắt ấn thiền, ấn chuyển pháp luân hoặc ấn kim cương hiệp chưởng…

3. Phật Di Lặc

Theo kinh điển Phật giáo, Di Lặc là vị Bồ tát sẽ xuất hiện trên trái đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lặc sẽ là vị Phật kế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cõi giáo hóa của Bồ tát hiện nay là trời Đâu suất.

Bồ tát Di Lặc được tiên tri sẽ giáng sinh trong kiếp giảm của tiểu kiếp kế tiếp, khi nhân thọ là 80.000 năm, tức khoảng 9 triệu năm nữa theo năm trái đất, khi Phật pháp đã bị lãng quên trên cõi Diêm phù đề.

Sự tích về Phật Di Lặc được tìm thấy trong các tài liệu kinh điển của tất cả các tông phái Phật giáo (Nguyên thủy, Đại thừa, Kim cương thừa), và được chấp nhận bởi hầu hết các Phật tử như là một sự kiện sẽ diễn ra khi Phật pháp đã bị lãng quên trên trái đất, và Bồ tát Di Lặc sẽ là bậc giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật khác đã làm trong quá khứ.

Theo các tài liệu ghi lại, trong tiếng Phạn, từ Di Lặc là maitreya nghĩa là Từ Thị, tức là chủng tính từ bi, gồm từ trong tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) và thị trong chủng, họ, tộc, có năng lực làm cho Phạt chủng không đoạn đứt ở thế gian.

Ở Ấn Độ, Phật Di Lặc được mô tả là một vị hoàng tử tuấn tú, thanh mảnh, thường mặc trang phục của hoàng gia Ấn Độ. Trong khi đó tại Trung Quốc và Việt nam, Ngài được biết đến với tướng mập tròn vui vẻ, trên vai đeo một túi vải, mặc áo hở bụng. Ngài đi đâu đâu cũng xin, người ta cho gì Ngài cũng lấy, khi gặp tụi nhỏ, ngài cho tụi nó hết. Ngài sống vô cùng tự tại, thích ở đâu thì ở, thích ngủ đâu thì ngủ. Cũng có những người lớn không ưa hay mắng chửi thậm chí nhổ nước bọt lên mặt Ngài nhưng Ngài vẫn bình thản, tự tại, lúc nào cũng nở nụ cười trên môi.

Một trong những hóa thân của Ngài mà chúng ta thường nghe nhất là Bố Đại Hòa Thượng trong Phật Giáo Trung Hoa, đó là một vị Hòa thượng ở đất Minh Châu, huyện Phụng Hóa (Trung Hoa), Ngài thường mang cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho gì cũng bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm, lạ thường. Trong thiên hạ không ai hiểu được Ngài là người như thế nào, chỉ cùng nhau gọi là vị Bố Đại Hòa thượng (vị Hòa thượng mang túi vãi lớn), đến đời Lương, niên hiệu Trình Minh năm thứ ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm, Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:

“Di Lặc Chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhơn,
Thời nhơn giai bất thức “.

Có nghĩa là:

“Di Lặc thật Di Lặc,
Biến trăm ngàn ức thân,
Thường hiện trong cõi đời,
Người đời chẳng ai biết “.

Nói xong bài kệ, ngài an nhiên thị tịch.

Thờ Tam Thế Phật có ý nghĩa gì?

Tam Thế Phật là bộ tượng có 3 pho tượng giống hệt nhau, được tạc trong tư thế ngồi thiền kiết già. Bộ Tôn tượng Tam Thế Phật mang ý nghĩa phổ quát, các Ngài là những vị Phật có trí tuệ, đạo hạnh cao thâm, đã dùng trí đức để cứu độ chúng sanh, dắt con người đi qua biển khổ luân hồi. Trong công cuộc cứu độ, dù trải qua hằng hà sa số kiếp cùng muôn vàn khó khăn thử thách, các Ngài vẫn một lòng hướng thiện.

Theo văn hoá phương Đông, ý nghĩa của bộ Tôn tượng Tam Thế Phật có thể được hiểu như sau: Đây là bộ tượng tôn vinh công đức của các vị chư Phật ở nhiều không gian và thời gian. Nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng cuộc sống hiện tại, phải sống để sau khi nhìn về quá khứ đều là những ngày đáng quý đồng thời cũng cần vui vẻ, lạc quan hướng đến tương lai tốt đẹp. Khi chúng ta thành tâm đảnh lễ, chiêm bái, ngày ngày ngắm tượng các Ngài, chúng ta sẽ học cách giữ tâm thanh tịnh, thoát khỏi phiền não, tìm được chân lý cuộc sống, phát tâm nhân từ, tiêu trừ vọng tưởng, tạp niệm không đáng có từ đó tìm được hạnh phúc chân thật để cuộc sống an yên và vui vẻ hơn.

Tâm Hướng Phật/Nguồn: Phatgiao.org.vn!

Bài viết cùng chuyên mục

Tâm địa thanh tịnh, ma sẽ không thể phạm

Định Tuệ

Phản văn văn tự tánh là gì?

Định Tuệ

Vô thường vô ngã khổ là gì?

Định Tuệ

Thế nào là tu Khổ hạnh? Làm sao tu Khổ Hạnh?

Định Tuệ

Chúng ta học Kinh Vô Lượng Thọ chắc chắn có thể sanh Tịnh độ

Định Tuệ

Tu trong mọi hoàn cảnh – Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Định Tuệ

Nguồn gốc, ý nghĩa của Kinh Dược Sư và lợi ích khi trì tụng

Định Tuệ

Muốn cứu độ thân bằng quyến thuộc thì nên chân thật niệm Phật

Định Tuệ

Công đức phóng sinh – Quy y và niệm Phật cho loài súc sinh

Định Tuệ

Viết Bình Luận