Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân?

Có người bảo rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, chỉ dành tiếp dẫn hạng căn cơ chậm lụt, giáo hóa những kẻ tầm thường. Còn nếu là bậc có thể vượt thẳng vào đất Như Lai thì đâu cần nhờ vào tha lực?

Hỏi: Thế giới Hoa Tạng là cảnh giáo hóa của Bổn sư, tại sao không cầu sinh về Hoa Tạng mà cầu vãng sinh Cực Lạc?

Đáp: Trong Hoa Nghiêm Sớ có lời hỏi đáp, gồm bốn ý:

  1. Một là do có duyên: nghĩa là đại nguyện của Phật A-di-đà phần nhiều chuyên về việc tiếp dẫn người ở cõi Ta-bà.
  2. Hai là khiến cho tâm trở về nương tựa của chúng sinh được chuyên nhất: vì trong cõi Hoa Tạng có vô lượng thế giới ở khắp trong mười phương, tất cả đều tuyệt diệu, nên người mới phát tâm mờ mịt không biết nương tựa cõi nào. Do đó, phương tiện dẫn dắt họ chuyên chỉ về Cực Lạc.
  3. Ba là vì chẳng ở ngoài Hoa Tạng: Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi, mà cõi Phật Hoa Tạng nhiều như số vi trần, nên biết không ở ngoài cõi Hoa Tạng.
  4. Bốn là do Bổn sư: biển cả thế giới Hoa Tạng đều là cõi của Phật Tỳ-lô-giá-na, nên Cực Lạc tuy cách xa mười muôn ức cõi, nhưng vẫn nằm ở trong nơi đó. Lẽ nào chẳng phải đức Bổn sư tùy theo tên gọi mà có sự giáo hóa khác nhau sao?

Hỏi: Kinh nói: “Người sinh về trời Đâu-suất, theo Bồ-tát Di-lặc sinh xuống ba hội, tự nhiên được đạo quả”. Vậy cần gì phải bỏ Đâu-suất gần mà cầu Cực Lạc nơi xa xôi?

Đáp: Ông cho rằng Đâu-suất gần, Cực Lạc xa. Đó chỉ là dùng nhục nhãn và tâm lượng phàm phu mà nói thôi.

Cả ba cõi Ta-bà, Đâu-suất, Cực Lạc đều ở trong một tâm. Tâm không có sự phân biệt kia đây, sao bảo rằng Đâu-suất gần còn Cực Lạc xa? Vả lại, nếu so sánh giữa Đâu-suất và Cực Lạc thì có mười sự hơn kém khác nhau:

  • 1. Cực Lạc mười niệm có thể vãng sinh; ở Đâu-suất cần phải tu các loại Tam-muội, vào sâu Chánh định, nên người khó được sinh lên.
  • 2. Cực Lạc do nguyện lực đại bi của Phật A-di-đà thệ nguyện tiếp dẫn; ở Đâu-suất thì Bồ-tát Di-lặc không có thệ nguyện tiếp dẫn.
  • 3. Cực Lạc do sức mạnh ánh sáng rộng lớn của Phật A-di-đà chiếu đến người tu hành (trong mười phương) thì thân tâm từ hòa, đến sinh trong cõi ấy; ở Đâu-suất không có điều đó.
  • 4. Phật A-di-đà thuyết pháp nhiều gấp mười lần các đức Phật khác, chúng sinh tùy theo chí nguyện đều vui thích, những pháp muốn nghe tự nhiên được nghe; ở Đâu-suất không có điều đó.

    5. Cõi Cực Lạc không có người nữ quấy rối chúng sinh; ở Đâu-suất thì Thiên nữ vi diệu, chư Thiên đam mê không thể tự cố gắng tu hành.

  • 6. Người sinh về Cực Lạc đều được ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ thần thông; ở Đâu-suất không có điều đó.
  • 7. Người sinh về Cực Lạc tự nhiên hàng phục tiêu diệt được phiền não, liền lên bậc Bất thối chuyển; ở Đâu-suất, Bồ-tát Di-lặc tuy hàng ngày thuyết pháp Bất thối, giáo hóa chúng sinh, nhưng chưa hẳn lên được ngay bậc Bất thối chuyển.
  • 8. Người sinh về Cực Lạc chỉ ngay trong đời này tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng; ở Đâu-suất theo Phật hạ sinh chưa hẳn đều chứng quả Thánh, huống gì đạo giác ngộ Vô Thượng!
  • 9. Người sinh về Cực Lạc được tuổi thọ vô lượng ngang bằng với Phật; ở Đâu-suất không có điều đó.
  • 10. Người sinh về Cực Lạc nếu muốn cúng dường chư Phật trong mười phương, thì các vật cúng dường tùy ý tự nhiên hiện ra trước mặt, trong khoảnh khắc đến khắp mười phương cúng dường chư Phật trong khoảng thời gian của một bữa ăn thì trở về cõi nước của mình; ở Đâu-suất không có điều đó.

Mười loại công đức trên, so sánh sự hơn kém rõ ràng, nếu xét kỹ thì khác nhau vô lượng. Người tu hành nên ở nơi đây tự chọn lựa.

Hỏi: Có người bảo rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, chỉ dành tiếp dẫn hạng căn cơ chậm lụt, giáo hóa những kẻ tầm thường. Còn nếu là bậc có thể vượt thẳng vào đất Như Lai thì đâu cần nhờ vào tha lực?

Đáp: Thuở xưa, Bồ-tát Văn-thù do niệm Phật mà được Nhất thiết chủng trí; Thiện Tài còn phải dùng mười đại nguyện vương cầu vãng sinh Cực Lạc; Thế Chí do nhờ Phật niệm Phật mà được vào Chánh định; phụ vương Tịnh Phạn và sáu vạn người dòng họ Thích đều vãng sinh Tịnh độ. Như thế, có thể gọi các Ngài là hạng căn cơ chậm lụt hoặc những kẻ tầm thường hay sao? Hơn nữa, đức Phật còn bảo ngài Di-lặc: “Thế giới này có 67 ức Bồ-tát Bất thối chuyển vãng sinh Cực Lạc, mỗi Bồ-tát đã từng cúng dường vô số chư Phật. Chư Bồ-tát có đạo hạnh nhỏ và tu công đức ít thì không thể tính kể. Các vị này đều sẽ vãng sinh. Không chỉ cõi này như thế, mà cõi Phật ở phương khác như cõi Phật Viễn Chiếu cũng có 180 ức Bồ-tát đều sẽ được vãng sinh. Những người vãng sinh ở vô lượng cõi Phật trong thế giới khắp mười phương không thể tính kể. Nếu Ta nói đầy đủ, dù trải qua một kiếp cũng chưa thể nói hết”.

Như thế, có thể bảo rằng tất cả các vị ấy đều là hạng căn cơ chậm lụt, hay những kẻ tầm thường sao? Còn như cho rằng Tịnh độ là phương tiện quyền biến của Thánh nhân, thì đây chính là phương tiện quyền biến của giáo lý chân thật.

Các nhà giáo lý phân định về Quyền Thật theo nhiều cách khác nhau. Theo sự phân định của hai nhà Thiên Thai và Hiền Thủ đều suy tôn Pháp Hoa, Hoa Nghiêm là giáo lý chân thật nhất. Nay xét phẩm Dược Vương Bổn Sự trong kinh Pháp Hoa nói, người nữ nghe kinh điển này, y theo lời dạy tu hành, lúc mạng chung liền sinh qua thế giới An Lạc, được thần thông của bậc Bồ-tát, đạt trí tuệ thấu rõ lý không sinh không diệt của các pháp.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền dạy Đồng tử Thiện Tài phát mười đại nguyện vương, lúc mạng chung dẫn lối vãng sinh Cực Lạc, không bao lâu sẽ được đạo giác ngộ Vô Thượng. Thế nên mới biết, công đức của niệm Phật và công đức y lời dạy tu hành theo kinh Pháp Hoa đều như nhau, cùng với sự phát mười đại nguyện vương công đức cũng như nhau.

Đã phân định hai kinh ấy là giáo lý chân thật thì có thể biết rằng Tịnh độ chẳng phải là giáo lý phương tiện quyền biến. Cho dù bảo rằng Tịnh độ là giáo lý phương tiện quyền biến thì vẫn là phương tiện quyền biến nơi giáo lý chân thật. Việc đó mọi người có thể hiểu rõ.

Vả lại, tôi từng cứu xét luận Khởi Tín. Trong luận ấy nói: “Người mới học về lòng tin chân chính Đại thừa, do ở nơi cõi này không thường gặp Phật nên lo sợ lòng tin thiếu duyên sẽ bị lui sụt. Nên biết, Như Lai có phương tiện thù thắng giúp cho họ không thối thất, chỉ cần chuyên niệm Chân như Pháp thân của Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc chắc chắn được sinh về cõi nước ấy”.

Tôi còn khảo cứu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong ấy nói: “Phàm phu tâm tưởng yếu kém, chưa được Thiên nhãn, không thể thấy xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện kỳ diệu làm cho họ được thấy”.

Phàm gọi là phương tiện thù thắng, phương tiện kỳ diệu, đó đã là sự quyền biến rồi.

Hai phương tiện này, nếu từ khía cạnh rốt ráo mà bàn, thì không có hai và cũng không khác với phương tiện vi diệu trong kinh Pháp Hoa. Do đó nên nói, giáo lý Tịnh độ là phương tiện quyền biến nơi giáo lý chân thật.

Hỏi: Những người tham thiền phần nhiều hay nói: “Tham Thiền là pháp chân thật, niệm Phật là pháp quyền biến. Tham thiền là viên đốn, niệm Phật là tiệm tu”. Như thế có phải chăng?

Đáp: Ông thấy niệm một câu Phật hiệu gọi là pháp quyền biến, giữ một câu thoại đầu gọi là pháp chân thật. Nhưng đâu biết rằng, nếu danh hiệu Phật mà nói là quyền biến thì câu thoại đầu cũng không thể là chân thật được.

Ông không nghe nói sao: “Ba tạng kinh điển, những lời trong Ngũ Đăng Hội Nguyên đều là dây sắn, dây bìm hôi thối trói buộc chết người, chỉ là “tay không”, “lá vàng” để dối gạt trẻ thơ nín khóc”. Thế mới biết, chư Phật trong ba đời, các bậc Tổ sư hễ mở miệng vì người đều là quyền biến, cho dù mình “đã được vào từ nơi đó” cũng đều là chỗ quyền biến.

Tuy bảo rằng: “Ngay khi bỏ phương tiện, nói thẳng đạo Vô Thượng” thì cũng đã thành phương tiện mất rồi. Kinh Pháp Hoa ban đầu nói pháp một vòng, sau đó mới gọi là phẩm Phương Tiện, lẽ nào đó chẳng phải là pháp quyền biến sao?

Do đó nên biết, niệm Phật và tham thiền đều là những phương tiện quyền biến khéo léo để tiếp dẫn chúng sinh. Nếu thấu suốt thì không có pháp nào chẳng phải chân thật, chưa tỏ rõ thì pháp nào cũng là quyền biến.

Ông bảo rằng tham thiền là viên đốn, nghĩa là “một niệm không sinh” gọi là Phật. Thử xem câu: “Nhớ Phật, niệm Phật đến chỗ tâm khai ngộ thấy Phật”, và câu: “Một niệm không sinh”, sự thật có sâu cạn hay chăng?

Hơn nữa, Tiệm giáo của Đại thừa phần nhiều nói trải qua ba kỳ kiếp tu hành Lục độ, còn cần phải gieo trồng nhân tướng hảo trong trăm kiếp, sau đó mới thành tựu được đạo giác ngộ chân chính. Nhưng ở cõi Tịnh độ này, người sinh về liền bước lên bậc Bất thối chuyển, có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vô lượng thần thông, sống lâu mãi mãi, chỉ trong một đời là thành tựu quả Phật. Như thế, lẽ nào Tiệm giáo có thể sánh kịp? Lại còn nước, chim, cây rừng đều phát ra âm thanh vi diệu; lưới báu, nhạc Trời đều tấu diễn pháp mầu. Như thế, chẳng những không thuộc về Tiệm, mà cũng không hạn cuộc nơi Đốn.

Nay phân định Tịnh độ là Tiệm giáo, thật ra dựa vào đâu nói như thế? Chẳng qua chỉ là lời nói cuồng dại không căn cứ, khiến cho mọi người thêm mê lầm rối loạn mà thôi.

Trích: Tịnh Từ Yếu Ngữ – Giải nghi Tịnh độ!

Bài viết cùng chuyên mục

Đại sư Ấn Quang dạy về phóng sinh

Định Tuệ

Cốt cách người tu hành: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh

Định Tuệ

Vì sao người học Phật phải kiêng cữ không nên ăn ngũ vị tân?

Định Tuệ

Phật pháp là thực hành không phải chỉ nói suông

Định Tuệ

Nếu không có công phu chân thật, bị chết khi gặp tai nạn đều không thể vãng sanh

Định Tuệ

Thiên ma Ba Tuần tu phước nghiệp gì mà được sinh về cõi trời?

Định Tuệ

Tuyệt đối kiêng dâm 4 ngày đầu năm: Từ đêm giao thừa tới mồng 3

Định Tuệ

Ba món tư lương Tịnh Độ: Tín, Nguyện và Hạnh

Định Tuệ

Tại sao học Phật pháp lại phải tọa thiền?

Định Tuệ

Viết Bình Luận