Niệm Phật thập yếu là bộ sách nhập môn Tịnh độ nhưng rất hấp dẫn và hoàn bị nhờ trình độ chuyên tu, trình độ Phật học và bút lực của bút giả.
Hòa thượng Thích Thiền Tâm (1924-1992) là một bậc cao tăng Việt Nam thế kỷ 20. Đường lối tu tập và sự nghiệp của Ngài vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng đối với các thế hệ học Phật Việt Nam, đặc biệt là những người tu theo pháp môn niệm Phật.
Trong số những trước tác để lại có bộ Niệm Phật thập yếu, được Ngài biên soạn vào những năm 1965-1966. Nội dung sách giới thiệu tổng quan về lịch sử, chủ trương, chỉ ra những cái nhìn chưa đúng về Tịnh độ và trình bày phương pháp niệm Phật theo truyền thống Tịnh độ tông.
Niệm Phật thập yếu là bộ sách nhập môn Tịnh độ nhưng rất hấp dẫn và hoàn bị nhờ trình độ chuyên tu, trình độ Phật học và bút lực của bút giả. Có thể xem Niệm Phật thập yếu là bộ Phật học phổ thông của người tu Tịnh độ.
Lời Phi Lộ
Bản thảo quyển này vừa viết xong, có vài ba đại đức hỏi mượn luân phiên nhau xem, rồi cật vấn:
– Chúng tôi thấy chư vị hoằng dương về Thiền Tông, dường như có ý bài xích Tịnh Độ. Chẳng hạn như trong quyển Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất có câu: Niệm Phật tụng kinh đều là vọng tưởng. Còn trong đây lại bảo: Môn Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật. Xem ra cũng dường như có ý cho Tịnh Độ là độc thắng, sự việc ấy như thế nào?
Đáp: Không phải thế đâu? Mỗi môn đều có tông chỉ riêng. Các bậc hoằng dương tùy theo chỗ lập pháp của mình, bao nhiêu phương tiện thuyết giáo đều đi về những tông chỉ ấy. Như bên Thiền lấy: Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật làm tông chỉ. Tịnh Độ môn lấy: Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển làm tông. Bên Hoa Nghiêm lấy: Lìa thế gian nhập pháp giới làm tông. Thiên Thai giáo lấy: Mở, bày, ngộ vào tri kiến Phật làm tông. Bên Tam Luận lấy: Lìa hai bên, vào trung đạo làm tông. Pháp Tướng môn lấy: Nhiếp muôn pháp về Chân Duy Thức làm tông. Mật giáo lấy: Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật làm tông. Và Luật môn lấy: Nhiếp thân ngữ ý vào Thi La Tánh làm tông.
Cho nên, lời nói bên Thiền ở trên, không phải bác Tịnh Độ, hay bác niệm Phật tụng kinh, mà chính là phá sự chấp kiến về Phật và Pháp của người tu. Nếu niệm Phật và tụng kinh là thấp kém sai lầm, tại sao từ Đức Thích Tôn cho đến chư Bồ Tát, Tổ Sư đều ngợi khen khuyên dạy tụng kinh niệm Phật? Nên biết, Vĩnh Minh thiền sư, tương truyền là hóa thân của Phật A Di Đà, mỗi ngày đều tụng một bộ Pháp Hoa. Lại, Phổ Am đại sư cũng nhân tụng kinh Hoa Nghiêm mà được ngộ đạo. Sự thuyết giáo bên Tịnh Độ cũng thế, không phải bác phá Thiền Tông, chỉ nói lên chỗ đặc sắc thiết yếu của bản môn, để cho học giả suy xét tìm hiểu sâu rộng thêm, mà tùy thích tùy cơ, chọn đường thú nhập.
Lại, mỗi môn tuy tông chỉ không đồng, nhưng đều là phương tiện dẫn chung về Phật Tánh. Như một đô thành lớn có tám ngõ đi vào, mà nẻo nào cũng tập trung về đô thị ấy. Các tông đại khái chia ra làm hai, là Không môn và Hữu môn. Không môn từ phương tiện lý tánh đi vào. Hữu môn từ phương tiện sự tướng đi vào. Nhưng đi đến chỗ tận cùng thì dung hội tất cả, sự tức lý, lý tức sự, tánh tức tướng, tướng tức tánh, nói cách khác: sắc tức là không, không tức là sắc, không và sắc chẳng khác nhau. Cho nên khi xưa có một vị đại sư tham thiền ngộ đạo, nhưng lại mật tu về Tịnh Độ. Lúc lâm chung ngài lưu kệ phó chúc cho đại chúng, rồi niệm Phật sắp vãng sanh. Một vị thiền giả bỗng lên tiếng hỏi: Cực Lạc là cõi hữu vi, sao tôn đức lại cầu về làm chi? Đại sư quát bảo: Ngươi nói vô vi ngoài hữu vi mà có hay sao? Thiền giả nghe xong chợt tỉnh ngộ. Thế nên Thiền và Tịnh đồng về một mục tiêu. Hữu môn cùng Không môn tuy dường tương hoại mà thật ra tương thành cho nhau vậy.
Đến như nói: Tịnh Độ hợp thời cơ, gồm nhiếp ba căn, kiêm thông cả Thiền, Giáo, Luật, Mật, chính là lời khai thị của chư cổ đức như: Liên Trì, Triệt Ngộ, Ngẫu Ích, Kiên Mật. Các đại sư này là những bậc long tượng trong một thời, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại xương minh về lý mầu của Tịnh Độ pháp môn. Như Triệt Ngộ đại sư, trong tập Ngữ Lục, đã bảo: Một câu A Di Đà, tâm yếu của Phật ta. dọc quán suốt năm thời, ngang gồm thâu tám giáo. Và Kiên Mật đại sư sau khi quán sát thời cơ, trong Tam Đại Yếu, cũng bảo: Đời nay tham thiền chẳng nên không kiêm Tịnh Độ, phòng khi chưa chứng đạo bị thối chuyển, há chẳng kinh sợ lạnh lòng? Một câu A Di Đà, nếu không phải là bậc thượng căn, đại triệt, đại ngộ, tất không thể hoàn toàn đề khởi. Nhưng với câu này, kẻ hạ căn tối ngu vẫn chẳng chút chi kém thiếu! Thế nên, thuốc không quí tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp chẳng thấp cao, hợp cơ là pháp diệu. Tịnh Độ với Thiền Tông thật ra chẳng thấp cao hơn kém. Nhưng luận về căn cơ, thì Thiền Tông duy bậc thượng căn mới có thể được lợi ích; còn môn Tịnh Độ thì gồm nhiếp cả ba căn, hạng nào nếu tu cũng đều dễ thành kết quả. Luận về thời tiết thì thời mạt pháp này, người trung, hạ căn nhiều, bậc thượng căn rất ít nếu muốn đi đến thành quả giải thoát một cách chắc chắn, tất phải chú tâm về Tịnh Độ pháp môn. Đây do bởi lòng đại bi của Phật, Tổ, vì quán thấy rõ thời cơ, muốn cho chúng sanh sớm thoát nỗi khổ luân hồi, nên trong các kinh luận đã nhiều phen nhắc nhở. Điều này là một sự kiện rất quan yếu và hết sức xác thật!
Tuy nhiên, như trong kinh nói: chúng sanh sở thích và tánh dục có muôn ngàn sai biệt không đồng, nên chư Phật phải mở vô lượng pháp môn mới có thể thâu nhiếp hết được. Vì vậy Tịnh Độ tuy hợp thời cơ, song chỉ thích ứng một phần, không thể hợp với sở thích của tất cả mọi người, nên cần phải có Thiền Tông và các môn khác, để cho chúng sanh đều nhờ lợi ích, và Phật Pháp được đầy đủ sâu rộng. Cho nên dù đã tùy căn cơ, sở thích của mình mà chọn môn Tịnh Độ, thâm ý bút giả vẫn mong cho Thiền Tông và các môn khác được lan truyền rộng trên đất nước này. Và các môn khác, nếu đem lại cho chúng sanh dù một điểm lợi ích nhỏ nhen nào, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ. Tóm lại, Hữu môn và Không môn nói chung, Thiền Tông và Tịnh Độ nói riêng, đồng cùng đi về chân tánh, tuy hai mà một, đều nương tựa để hiển tỏ thành tựu lẫn nhau, và cũng đều rất cần có mặt trên xứ Việt Nam, cho đến cả thế giới.
Mấy vị đại đức sau khi nghe xong đều tỏ ý tán đồng. Nhân tiện, bút giả lại trần thuật bài kệ của Tây Trai lão nhơn để kết luận, và chứng tỏ người xưa cũng đã từng đồng quan điểm ấy:
Tức tâm là độ lý không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu, vẫn một nhà
Sắc hiển trang nghiêm miền diệu hữu
Không kiêm vô ngại cõi hằng sa
Trời Tây sáng đẹp màu châu ngọc
Nguyện Phật bao la đức hải hà
Ngoảnh lại đường tu, ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo mãi vào ra!
Thích Thiền Tâm cẩn chí!
Mục lục Niệm Phật Thập Yếu
Chương I: Đệ Nhất Yếu – Niệm Phật Phải Vì Thoát Sanh Tử
A. Môn Tịnh Độ, Một Pháp Hợp Thời Cơ
B. Môn Tịnh Độ Với Vấn Đề Sanh Tử
C. Biết Khổ Phải Ý Thức Đến Sự Giải Thoát
Chương II: Niệm Phật Phải Phát Lòng Bồ Đề
A. Luận Về Bồ Đề Tâm
B. Những Công Hạnh Của Bồ Đề Tâm
C. Ba Sự Kiện Thiết Yếu Đối Với Bồ Đề Tâm
Chương III: Đệ Tam Yếu Niệm Phật Phải Dứt Trừ Lòng Nghi
A. Lòng Tin, Cửa Vào Tịnh Độ
B. Giải Thích Các Điều Nghi
Chương IV: Đệ Tứ Yếu Niệm Phật Phải Quyết Định Nguyện Vãng Sanh
A. Nguyện Thiết, Động Lực Chánh của Sự Vãng Sanh
B. Giới Thiệu Lời Văn Phát Nguyện Của Tiền Nhơn
Chương V: Đệ Ngũ Yếu Niệm Phật Phải Hành Trì Cho Thiết Thật
A. Môn Niệm Phật Với Tứ Đoạt Và Tứ Hạnh
B. Khái Luận Về Các Phương Pháp Niệm Phật
C. Đi Vào Đường Lối Thật Hành
Chương VI: Đệ Lục Yếu Niệm Phật Phải Đoạn Tuyệt Phiền Não
A. Lược Đàm Về Tham Phiền Não
B. Lược Đàm Về Sân Phiền Não
C. Lược Đàm Về Si Phiền Não
Chương VII: Đệ Thất Yếu Niệm Phật Phải Khắc Kỳ Cầu Chứng Nghiệm
A. Nên Định Kỳ Kiết Thất
B. Quyết Định Cầu Nghiệm
C. Cảnh Giới Phát Hiện
Chương VIII: Đệ Bát Yếu Niệm Phật Phải Bền Lâu Không Gián Đoạn
A. Yếu Điểm Của Môn Tịnh Độ
B. Làm Thế Nào Niệm Được Bền Lâu?
C. Tịnh Độ, Môn Giải Thoát Đặc Biệt
Chương IX: Đệ Cửu Yếu Niệm Phật Phải An Nhẫn Các Chướng Duyên
A. Nói Lược Về Các Duyên Khảo
B. Phương Thức Hóa Giải Chướng Duyên
C. Những Gương Về Sự An Nhẫn
Chương X: Đệ Thập Yếu Niệm Phật Phải Dự Bị Lúc Lâm Chung
A. Những Dự Bị Cần Thiết Cho Lúc Lâm Chung
B. Sự Khẩn Yếu Lúc Lâm Chung
C. Điều Khẩn Yếu Sau Khi Mãn Phần