Phóng dật là tâm bị ngoại cảnh lôi cuốn. Buông lung là tâm lang thang bất định cho nên thấy cái gì bên ngoài thì chạy theo gọi là phóng dật.
1. Phóng dật là gì?
Phóng dật là tâm bị ngoại cảnh lôi cuốn. Ai thường bị chi phối bởi bên ngoài quá nhiều mới buông lung phóng dật. Buông lung là tâm lang thang bất định cho nên thấy cái gì bên ngoài thì chạy theo gọi là phóng dật.
Khi chạy theo cái bên ngoài thì thất niệm (bỏ quên thực tại thân tâm, không còn trọn vẹn với chính mình) ràng buộc với đối tượng khổ vui bên ngoài. Khi thất niệm không còn biết mình thì mất tỉnh giác. Như vậy có 2 thái độ sống:
- Sống buông lung phóng dật đưa đến thất niệm mất tỉnh giác.
- Sống tinh tấn – thường trở về với thực tại- đưa đến chánh niệm tỉnh giác.
Phóng dật là tâm hướng về quá khứ, tương lai hoặc hướng ra bên ngoài nên mới rơi vào thế giới ảo, đánh mất thực tại. Vì vậy chỉ cần thường biết, thận trọng, chú tâm, quan sát thân tâm trong mọi sinh hoạt đời sống thì sẽ không buông lung phóng dật nữa.
Chỉ cần thấu hiểu những sự thật sau đây là đủ yếu tố sống thiền:
- Vô minh và Minh.
- Không tham ưu và Không dính mắc.
- Luân hồi sinh tử và Tịch tịnh Niết Bàn.
- Tập Đế và Đạo Đế – Khổ Đế và Diệt Đế.
- Thế giới Tập Khởi và Thế giới đoạn diệt.
- Phóng dật và tinh tấn.
- Thất niệm và chánh niệm.
- Mê muội và tỉnh giác.
2. Đệ nhất pháp của Phật là Tâm Không Phóng Dật
Ở đời có năm món hấp dẫn, khiến người ta đắm say, vui thích là tiền bạc, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ (ngũ dục). Cùng với ngũ dục là ngũ trần, năm khoái lạc của giác quan, mắt thích sắc đẹp, tai say tiếng hay, mũi mê hương thơm, lưỡi đắm vị ngon, thân ưa xúc chạm êm ái. Chính sức hấp dẫn của ngũ dục và ngũ trần đã khiến cho chúng sanh say đắm, dính mắc, kẹt cứng, bị lệ thuộc, từ đó tạo ra vô vàn phiền lụy, đau khổ.
Theo Thế Tôn, ngũ dục và ngũ trần là sức mạnh của ma vương. Không chỉ trói buộc người đời, mà ngay cả hàng xuất gia mang chí nguyện thoát tục cũng khó vượt ra khỏi uy lực và kềm tỏa của ma Ba-tuần. Nên thay vì thẳng đến chỗ vô vi, lần hồi lại quay về hữu vi, “rơi vào sanh già bệnh chết, không qua được các nạn đáng sợ, lọt vào cảnh giới của ma”. Nhưng không phải là mọi chúng sanh đều bó tay chịu chết chìm trong ngũ dục và ngũ trần, theo Thế Tôn, không phóng dật chính là thuốc hay để giúp trị liệu căn bệnh trầm kha này.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Đàn bà có năm thế lực coi thường chồng. Thế nào là năm? Sắc lực, thế lực của thân tộc, sức mạnh của ruộng vườn gia nghiệp, sức mạnh của con cái, sức mạnh của tự thủ mà coi thường người chồng.
Người chồng lại cũng dùng một thế lực để che phủ người vợ kia. Thế nào là một thế lực? Nghĩa là sức phú quý. Người chồng vì phú quý, sức mạnh của sắc chẳng bằng, thân tộc, ruộng vườn, con cái, tự thủ đều chẳng bằng. Đó là do một thế lực mà thắng bấy nhiêu thế lực.
Nay tệ ma Ba-tuần cũng có năm thế lực. Thế nào là năm? Nghĩa là: sắc lực, thanh lực, hương lực, vị lực, xúc lực. Phàm người ngu si đắm trước các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc chẳng thể qua được cảnh giới của ma Ba-tuần. Nếu đệ tử Thánh thành tựu một thế lực thì thắng bao nhiêu sức đó. Thế nào là một thế lực? Nghĩa là sức không phóng dật. Nếu các đệ tử bậc Hiền Thánh thành tựu không phóng dật, thì chẳng bị sắc, thanh, hương, vị, xúc trói buộc. Vì không bị ngũ dục trói buộc, nên có thể phân biệt pháp sanh già bệnh chết, thắng năm thế lực của ma, không rơi vào cảnh giới ma, qua được các nạn đáng sợ, đến chỗ vô vi.
Thế Tôn liền nói kệ này:
Giới là đạo cam lồ
Phóng dật là đường chết
Không tham thì không chết
Mất đạo là mất mình.
Phật bảo các Tỳ-kheo: – Nên nhớ tự hành, chớ phóng dật. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Tà tư,
VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.361)
Thế Tôn đã đưa ra một ví dụ với hình ảnh cụ thể và sống động để chúng ta dễ hình dung vấn đề. Như người vợ quá khéo léo, giỏi giang (theo quan niệm xưa) có nhan sắc, thân tộc có nhiều thế lực, ruộng vườn gia nghiệp dồi dào, sinh con đẻ cái đông đúc, biết gìn giữ và phát huy sản nghiệp gia đình nên hay coi thường, lấn lướt người chồng. Nếu người chồng thực sự giàu sang phú quý thì chỉ một sức mạnh này thôi có thể nhiếp phục được, che phủ được năm ưu điểm của người vợ giỏi giang kia.
Cũng vậy, ma Ba-tuần giăng bẫy ngũ dục, ngũ trần ở khắp mọi nơi nhưng nếu những người tu Phật quyết không phóng dật thì đủ sức mạnh vượt qua. Phóng dật là buông thả tâm tham ái chạy theo ngũ dục, ngũ trần nên bị trói buộc, bị mất mình. Không phóng dật là giữ tâm chánh niệm khi đối duyên xúc cảnh, quán thấu vô thường-khổ-không của các pháp nên không khởi tham đắm, dính mắc, không bị cảnh trần trói buộc.
Để hỗ trợ cho hạnh không phóng dật được mạnh mẽ và tinh chuyên, vâng giữ giới luật là căn bản nhất. Nhờ giới luật che chắn và giữ gìn khiến cho người tu không buông lung, sa ngã. Nhờ không phóng dật nên làm chủ tham ái. Khi tham ái được kiểm soát thì đạo lộ giải thoát càng hiện rõ dần. Cho đến một ngày tham ái được xả ly và đoạn tận thì vượt ra khỏi tầm với của ác ma, thành tựu đại giải thoát.
Muốn Tâm không phóng dật phải tập Tứ Ý Đoạn. Tứ Ý Đoạn tức là Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần là pháp ngăn ác diệt ác, sinh thiện tăng trưởng thiện.
Trong cuộc đời tu hành theo Phật thì lúc nào, giờ nào phải thường cảnh giác ngăn và diệt các ác pháp, không cho chúng tác động vào thân, tâm. Khiến cho thân tâm lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự.
Nhờ thế mà tâm không bị phóng dật, nên đức Phật dạy: “Đệ nhất pháp tâm không phóng dật là Tứ Ý Đoạn”. Nhưng tâm không phóng dật là thành tựu đạo giải thoát, tức là viên mãn con đường tu tập.
Trước khi vào Niết Bàn Ngài di chúc lại: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà pháp môn Tứ Chánh Cần là pháp môn đệ nhất ngăn ác diệt ác pháp khiến cho thân tâm bất động. Nhờ đó mà tiến tới các pháp cao hơn sâu hơn.
Tứ Chánh Cần là nền tảng đạo đức vững chắc nhất của Phật giáo. Cho nên, muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì đức Phật đã trang bị cho chúng ta bốn loại định:
- Định Sáng Suốt.
- Định Vô Lậu.
- Định Chánh Niệm Tỉnh Giác.
- Định Niệm Hơi Thở.
Trong Định Niệm Hơi Thở có 18 đề mục tu tập (xin đọc lại Định Niệm Hơi Thở).
Định Niệm Hơi Thở là một pháp môn rất quan trọng. Nó được xem như là một chiếc “chổi thần” dùng để quét tất cả các chướng ngại pháp trên thân, thọ, tâm, pháp của Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ mà được viên mãn đều phải nhờ đến cây chổi thần này.
Định Niệm Hơi Thở được ví như những loại vũ khí tối tân và hiện đại nhất để chiến đấu trong chiến trận sanh tử. Người tu sĩ Phật giáo tu tập Định Niệm Hơi Thở cũng giống như một binh sĩ được huấn luyện trong trường võ bị.
Sự quan trọng của Định Niệm Hơi Thở như vậy, nên khi tu tập theo Phật giáo phải tu tập rất kỹ lưỡng về Định Niệm Hơi Thở để cho nó có đủ năng lực đẩy lùi các chướng ngại pháp trên thân và tâm.
Ông Châu Lợi Bàn Đặc suốt ngày đêm trong thất chuyên quét tâm, cuối cùng chứng quả A La Hán. Ông A Nan đi kinh hành quét tâm suốt đêm chứng quả A La Hán.
Tóm lại, quét tâm có phương pháp để tâm bất động. Tâm bất động là tâm không phóng dật. Tâm không phóng dật là đạt được giải thoát.
3. Không phóng dật mà ít muốn biết đủ sẽ mang lại nhiều lợi ích
Bởi vì, lòng tham muốn, khát khao làm cho ta khổ đau bao nhiêu, thì Thiểu dục (ít muốn) và Tri túc (biết đủ) lại làm cho ta sung sướng, hạnh phúc bấy nhiêu, đây là lẽ tất nhiên. Đọc thêm: Thiểu dục tri túc: Phương pháp đối trị dục vọng
Trong Phật giáo, cái gì cũng có nhân và quả. Nhờ “ít tham dục”, nên “con ma dục vọng” không làm sao ngự trị, sai sử được mình; nhờ “biết đủ” nên “con quỷ tham lam” chẳng có quyền hành thúc đẩy mình đi tìm kiếm những thú vui xa xỉ. Chỉ khi ấy con người mới có thể tự có hạnh phúc và an lạc thật sự.
Cũng nhờ Thiểu dục và Tri túc mà gia đình, xã hội được trên ấm dưới êm, an vui, hòa bình, không ẩu đả, không còn ai giành giật của cải, danh vọng, miếng ăn ngon, vật lạ của ai nữa. Do vậy, lợi ích của nó vô cùng lớn lao, nếu như tất cả mọi đối tượng trên thế giới đều áp dụng.
Đạo Phật dạy Thiểu dục và Tri túc cốt yếu để ngăn ngừa và chặn đứng con đường trụy lạc, đồi bại. Để ngăn ngừa và chặn đứng lòng tham lam, độc ác không bờ bến, không đáy của chúng sinh, đang sống trong cõi đời đầy dẫy vật thực và dục lạc, người ít muốn, biết đủ, biết chế tâm, định tĩnh nếu thêm hạnh người xuất gia thì có trí tuệ sáng suốt, an yên đi đến Niết bàn, Đạo Phật không chủ trương bó hẹp sự phát triển và tiến hoá của con người theo hướng tích cực.
Thấy được hậu quả của khát ái, tham lam, nên Đức Phật với tấm lòng từ bi Ngài đưa ra phương thuốc trị tận gốc bệnh tinh thần, đó là Thiểu dục và Tri túc, không phóng dật, quán vô thường.
Phương thuốc này sẽ có công năng làm yếu dần tâm tham lam và lòng khát ái; có như thế các mối dục vọng, tham lam, tội ác, vô lương tri dần dần tiêu diệt, cuối cùng chỉ còn lại tấm lòng từ bi, đoạn trừ phiền não, phát đại tinh tiến, điều phục tâm, thoát sân hận, đạt tuệ tri.
Mỗi khi con người hết chạy theo dục vọng, hết đuổi bắt những hạnh phúc vật chất tạm bợ, mông mênh, vô thường, không thật có, thì lúc ấy chính bản thân của họ đã giảm thiểu và hết đau khổ bởi vì không còn lao tâm khổ trí theo sự chỉ dẫn của lòng khát ái, tham lam. Như vậy, họ không chỉ tạo ra hạnh phúc chân thật cho chính họ mà họ còn mang lại sự hạnh phúc lớn lao cho tha nhân.
Tâm Hướng Phật/TH!