Rõ ràng là phải sống Thiểu dục Tri túc. Nếu chúng ta Thiểu dục Tri túc thì sẽ không phóng dật, nghĩa là chúng ta tiến đến giải thoát.
Trong tất cả các Kinh, Đức Phật đều cho rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nỗi khổ là do tham lam. Vì thế, Người đã dạy phương pháp đối trị lòng tham chính là sống theo hạnh “Thiểu dục tri túc”.
Tuy nhiên, hạnh sống thiểu dục tri túc ngày nay dường như đang trở nên mâu thuẫn với những quan điểm của xã hội hiện đại. Đó là do cách sống này không phù hợp hay do chúng ta chưa hiểu đúng và làm theo lời dạy của Đức Phật về Thiểu dục tri túc?
Thiểu dục tri túc là gì?
Thiểu dục tri túc nghĩa là giảm bớt ham muốn và biết đủ. Ở xã hội hiện đại, con người không ngừng nỗ lực và vươn lên để đạt được những thành công cũng như là thỏa mãn được đời sống vật chất đầy đủ, thì hạnh sống biết đủ có vẻ làm kiềm chế đi sự cầu tiến của một người. Đây là cách hiểu còn quá nông cạn, đi lệch hướng với lời dạy của Đức Phật.
Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”, để chỉ rằng lòng tham con người là vô hạn. Chính vì lòng tham đó mà chúng ta không tìm được hạnh phúc ngay trong cuộc sống này cũng như sản sinh ra nhiều hệ lụy của xã hội bằng những tệ nạn đầy nguy hiểm. Nhu cầu ở con người không có điểm dừng, đói thì muốn no, no thì muốn ngon, ngon thì món ăn lạ, độc đáo,… Chính vì cứ mãi theo những nhu cầu này mà gây nên sự phiền não.
Đức Phật có dạy: “Này các Tỳ kheo, hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành”. Đó là: Chuyên tâm tham đắm dục lạc thấp hèn, không xứng đáng và không ích lợi; Chuyên tâm khổ hạnh, gây khổ đau, không xứng đáng và không ích lợi.
Lối sống ép thân, khổ hạnh Đức Phật không muốn chúng ta phải đi theo. Và ngược lại lối sống quá tham đắm vào dục lạc là nguyên nhân của sự khổ. Chúng ta thường khổ vì tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi không có đủ tiền để đáp ứng những nhu cầu của bản thân đặt ra thì phiền não xuất hiện. Nó khiến chúng ta phải tìm mọi cách để có tiền.
Không có tiền thì chúng ta cảm thấy bế tắc, khó chịu và tuyệt vọng. Khi không có nhan sắc, chúng ta thường đau khổ, tủi thân, đố kỵ. Luôn muốn mình nổi trội, đẹp hơn người. Khi không có địa vị, danh vọng, chúng ta lại đi tìm mọi cách để đạt được, bày mưu tính kế để hãm hại, đạp đổ người khác để mình có được vị trí cao trong xã hội. Ngày đêm mưu tính, lo sợ khiến chúng ta không có được một giây phút thanh thản thật sự.
Khi những món ăn không ngon, chúng ta lại khó chịu, bỏ ăn và buồn phiền. Lúc nào cũng muốn được ăn ngon, ăn nhiều. Và khi ngủ không đủ giấc, chúng ta sinh ra sự cáu gắt, khó chịu. Luôn muốn được ngủ kỹ, ngủ nhiều. Vì sao chúng ta lại rơi vào điều này? Vì chúng ta đang là nô lệ của lòng tham, bị lòng tham điều khiển và khống chế nên gây ra bao khổ não vì không đáp ứng được những mong muốn của nó.
Trong kinh Thuỷ Sám có câu: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”. Đó là lý do vì sao nhiều người giàu nhưng vẫn không tìm được hạnh phúc, người nghèo lại có được hạnh phúc tràn đầy. Ta thấy rằng, thiếu thốn hay đầy đủ không phải phụ thuộc vào vật chất, mà nó phụ thuộc vào tư tưởng hay cách suy nghĩ của chúng ta.
Đây là lý do vì sao Đức Phật dạy hạnh thiểu dục tri túc cho người Phật Tử. Thiểu dục tri túc không kiềm hãm sự phát triển của bất kỳ ai, cách sống này là để đối trị với lòng tham không đáy, lòng tham gây ra phiền não không có điểm dừng mà chúng ta, những con người hiện đại đang bị vướng phải. Thiểu dục tri túc là một sắc thái tâm lý sống.
Thiểu dục tri túc: Phương pháp đối trị dục vọng
Hiểu là vậy, nhưng sống Thiểu dục Tri túc thì không dễ dàng gì giữa cuộc đời đầy cám dỗ. Do đó, Phật dạy về Tri túc. Như bài kệ trong Kinh Tăng Chi nói về kết quả ngay hiện tại có được do không phóng dật:
“Hãy sống không có tham,
Với tâm không có sân,
Chánh niệm và nhất tâm,
Nội tâm khéo định tĩnh
Thường không sân, chánh niệm,
Nội tâm khéo định tĩnh,
Tham nhiếp phục, học tập,
Được gọi không phóng dật”.
Tri túc về lợi dưỡng thì không chấp nhận những trường hợp có lợi không do tự thân làm ra. Nếp sống đó là mặt tích cực mà xã hội nào cũng trông chờ. Người xưa đã để lại lời dạy quý giá cho muôn đời: “Phú dữ quý thị nhân chi sở dục dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất xử dã. Bần dữ tiện thị nhân chi sở ố dã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi bất khứ dã. Bất nghĩa nhi phú thả quý ư ngã như phù vân”. (Nghĩa là: Giàu sang ai chẳng muốn, nhưng có được bằng đường bất chính ta không thèm. Nghèo hèn ai chả ghét, nhưng thoát ra bằng cách gian tà ta không chịu. Giàu sang mà bất nghĩa ta coi như mây nổi mà thôi).
Tri túc về sắc dục thì không tà hạnh với người khác, đây cũng là một trong Năm giới của người Phật tử, là nhân tố căn bản nhất để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình, danh dự của bản thân và không phá hoại hạnh phúc, đức hạnh của người khác. Đức Phật đã dạy: “Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay” (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).
Kinh Sống Phóng Dật, Tương ưng IV, 137 có đề cập đến tác hại của việc không phòng hộ các căn, dẫn đến đời sống đầy đau khổ: “Ai sống không nhiếp hộ nhãn căn, này các Tỳ kheo, thời tâm người ấy bị nhiễm ô (vyàsincati) đối với các sắc do mắt nhận biết. Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan. Do không có hân hoan nên không có hỷ. Do không có hỷ nên không có khinh an. Do không khinh an nên khổ an trú”.
Hòa thượng Thích Trí Quảng từng đề cập: Không tham lam, xấu ác, người thể nghiệm giáo pháp Phật sống Thiểu dục, Tri túc. Cách sống Thiểu dục, Tri túc không có nghĩa là sống hèn hạ, an phận, thiếu hiểu biết, thiếu nỗ lực vươn đến sự phát triển; trái lại, đó là cách sống sáng suốt và cao thượng, hạn chế lòng vị kỷ, sống hài hòa với thiên nhiên, không làm hư hoại môi sinh, vì nhận biết được những gì nên khai thác và khai thác đến mức độ nào, những gì cần bảo vệ để cho con em thế hệ kế tiếp của chúng ta khai thác. Ngược lại, tham muốn quá nhiều gom về cho cá nhân hay phe nhóm, khiến con người trở nên mù quáng, tàn bạo một cách phi lý. Họ sẵn sàng giao chiến, gây chết chóc, bệnh tật, nghèo đói, tiêu hủy mầm sống của các loài, khiến cho môi sinh trên quả địa cầu ngày càng xấu thêm. Hoặc bằng mọi cách, họ chiếm cho được món lợi khổng lồ, không quan tâm, hay không biết đến sự tác hại của việc khai thác bừa bãi, làm cạn kiệt tài nguyên, xả những chất độc hại vào không khí, vào dòng nước, vào lòng đất, làm ô nhiễm môi sinh, mất cân bằng sinh thái.
Người xưa từng nói nếu lòng tham vô đáy, nhưng biết Thiểu dục Tri túc, không còn tự tư, tự lợi, thì chắc chắn mỗi người sẽ được an lạc, tâm trí được thanh tịnh, sáng suốt để chu toàn các công việc. Phật giáo nhận ra cuộc đời vốn khổ thì tại sao chúng ta không lấy khổ làm chất liệu nuôi mình, hạnh phúc từ trong khổ đau. Cắt đứt ràng buộc của ái dục là một thái độ rốt ráo, trong cuộc sống. Nhưng bớt mong muốn (thiểu dục) để ít lo sợ và giảm sầu muộn thì không ít người đã làm được bằng cách có nếp sống Tri túc, nghĩa là biết đủ. Đủ ở đây được hiểu là đủ so sánh với hoàn cảnh, công việc và với trách nhiệm của mỗi người.
Như vậy, Phật tử tu học theo lời dạy của Đức Phật thì ngay đây phải tuệ tri, biết chặn phản xạ của thói quen năm dục mà lập chí giải thoát, cho có kết quả; trừ bỏ cái tâm chạy theo vật chất mà hướng về chăm lo đời sống được sáng lên với trí tuệ thanh tịnh. Như vậy, hạnh phúc chân thật là hạnh phúc thuần khiết đầy tuệ giác. Cái tâm biết đủ là đầu nguồn tạo ra sự bình yên bên trong thuần tịnh, giải thoát. Hạnh phúc chân thật và lâu bền không bao giờ xây được bằng lòng khát khao vô tận về mọi thứ của cải, tiền bạc, lợi dưỡng, danh vọng…
Với người xuất gia, hay người tu tập theo hạnh viễn ly, hành Bồ tát đạo thì phải biết sống thường lạc, bất túc. Người xuất gia lìa bỏ mọi thú vui vật chất trần đời mà sống với chí nguyện giải thoát, việc ăn, mặc, ngủ phải hơi thiếu, không phóng dật, mặc y phấn tảo, trình tự khất thực, ít muốn, biết đủ, tập tinh cần học tập, thường ưa Viễn ly. Như Hòa thượng Ấn Thuận cũng nêu rằng: “Người xuất gia là nhờ khất thực mà duy trì đời sống, do đó khi không có nhận được gì, thì cũng không nên có tâm mong cầu cho được nhiều hơn, gọi là Thiểu dục”.
Phật dạy đệ tử của Ngài: “Sống với xả ly là buông đắm nhiễm năm dục, sống như hạc bỏ ao hoang (giống hạc có lối ăn rất lạ là khi đến ao đầm kiếm ăn, là ăn một lần nơi ấy rồi bay đi, không bao giờ còn trở lại chốn cũ ấy để kiếm ăn nữa). Phật dạy người xuất gia ở đời như con ong hút mật, không làm hoa héo:
“Như ong chỉ lấy nhụy
Không hại hương sắc hoa”.
(Kệ 49, Kinh Pháp Cú)
Nghĩa là không tham cầu làm mất tín tâm tịnh thí của tín đồ, không đòi hỏi món này, vật nọ để nuông chiều thân xác, sống như thế để dành thời gian chăm lo tu tập. Sống Thiểu dục Tri túc là không làm mờ úa bản tâm, nếu không như vậy thì không xứng bậc Sa môn. Trong việc giữ gìn nếu cất chứa vật không dùng đến gọi là tướng ngu si. Người xuất gia không nên cất chứa giống người tại gia. Do những lỗi này nên Thiểu dục Tri túc (ít muốn, biết đủ), hành giả nếu không Thiểu dục Tri túc, thì tâm tham dần dần tăng trưởng. Vì tài lợi mà tìm cầu những vật không đáng tìm cầu. Vì ưa thích tài lợi nên hoàn toàn không được yên ổn, do quá tham đắm. Người xuất gia này thích tu hạnh xa lìa, mà vì tham lợi nên quên mất việc tu của mình, cũng không thể bỏ các phiền não. Vì sao? Vì vật bên ngoài còn không bỏ được, huống gì pháp ở bên trong. Lại thấy lợi dưỡng là nhân của suy não, như mưa đá hại mùa màng. Vì thế, thường tu tập Thiểu dục Tri túc. Lại thấy, nhận vật của thí chủ khó đền ơn, như mắc nợ chẳng trả lại vốn, về sau phải chịu khổ não. Lại thấy, được lợi dưỡng là thứ mà Đức Phật và người thiện đã ruồng bỏ.
Cho nên, nếu con người nếu biết liệu cơm gắp mắm thì lúc nào cũng thấy bình yên, hạnh phúc. Đối với người xuất gia thì sống với tinh thần Thiểu dục Tri túc là sống không mắc nợ đàn na, không lệ thuộc năm trần. Về đời sống người Phật tử thì luôn biết đủ, không làm nguy hại bản thân và cộng đồng. Như vậy, sẽ tránh dùng mưu mô, phương tiện bất chính tạo ác nghiệp.
Hạnh của người Tu sĩ, không để các pháp sai khiến tâm mình hay không trở thành nô lệ của pháp (không để pháp dính mắc tâm) tức là lập hạnh sống Thiểu dục Tri túc. Vì tâm không dính vào pháp, tâm sẽ ly được dục, ly được ác pháp. Từ đó, con đường tu tập sẽ đạt được kết quả giải thoát. Phật dạy Tri túc Thiểu dục là để ly dục, ly ác pháp, nhập thiền khiến giải thoát, không còn tái sanh luân hồi, sống an lạc, tự tại như Phật Thích Ca đã từng. “Thiểu dục Tri túc” là một pháp môn cần thiết cho người Tu sĩ sống đúng phạm hạnh giải thoát của Đạo Phật. Ngược lại, nếu tâm chạy rong theo các pháp thì tâm càng lúc càng sa đọa, sống theo kiểu thế gian, dục lạc dần hướng về Địa ngục.
Đạo Phật dạy Tri túc Thiểu dục là đem lại cho chúng ta có một nguồn sống yên vui, hạnh phúc. Thật sự như vậy, Phật dạy đừng thân cận dục, đừng thân cận ác pháp. Như vậy, rõ ràng là phải sống Thiểu dục Tri túc. Nếu chúng ta Thiểu dục Tri túc thì sẽ không phóng dật, nghĩa là chúng ta tiến đến giải thoát. Chính vì con người chưa biết Thiểu dục Tri túc nên thường đau khổ. Tất cả tai họa trong cuộc đời này là do chính hành động ác của chúng ta chứ không phải ai mang đến. Như vậy, chúng ta biết hành động ác là gì? Chính là thân, khẩu, ý. Nếu thân, khẩu, ý thiện thì làm sao mà có tai họa, từ đó mà chúng ta được thảnh thơi, an lạc.
Quả thật, Tri túc tuy nghèo mà lại giàu có. Trái lại người không có cái tâm biết đủ thì giàu bao nhiêu đi nữa vẫn mãi là nghèo. Không biết đủ là tâm tham lam, tâm cứ chạy lo gom góp cho bản ngã mọi ham thích hết thảy những gì hiện có. (Trích: Thiểu Dục Tri Túc Theo Quan Điểm Phật Giáo – Thích Tịnh Uyên!)
Tâm Hướng Phật/TH!