Tập Cẩm nang tu đạo này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh tăng cận đại, Hòa thượng Quảng Khâm. Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài.
Dẫn Nhập
Tập Cẩm Nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh tăng cận đại, Hòa thượng Quảng Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài.
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Chúng sinh như người bệnh, thiện tri thức như bác sĩ, lời dạy của thiện tri thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh”.
Bởi vậy, trong tập Cẩm Nang này, bạn sẽ thấy mỗi lời dạy của Ngài đều vô cùng sâu sắc, trực tiếp song đơn giản; ngắn gọn, dễ hiểu mà hàm súc. Đây là điểm then chốt dị biệt giữa lời nói của người đã ngộ đạo và kẻ chưa tỉnh giác.
Kẻ còn mê muội thì cần lời giảng cao xa, sâu sắc, dùng trò chơi trí thức chữ nghĩa, song thiếu thực dụng nội tại. Những lời dạy của Hòa thượng Quảng Khâm là những lời mà không ai có thể bắt chước được, bởi vì những lời ấy được lưu xuất từ một nội tâm thâm chứng và một cuộc đời chân thật thực nghiệm.
Sống trong sự thâm chứng ấy mỗi ngày, Ngài chỉ ăn một bữa ngọ và chỉ ăn trái cây; ngủ thì ngủ ngồi; áo mặc thì chỉ một vài bộ. Ngài rất ít lời, không nói chuyện dông dài, bàn luận thế sự tạp nhạp.
Cả đời, vật sở hữu của Ngài hoàn toàn không! Chẳng có xe hơi, chẳng có trương mục ngân hàng hay thẻ tín dụng, nhà riêng, ti vi, tủ lạnh, radio… tất cả Ngài đều không có. Chính bởi vì, và chỉ có, cuộc sống rỗng không như vậy nên Ngài mới thực sự an trụ trong cảnh giới chân không của tự tâm. Đây thật là điều quý báu để chúng ta, kẻ hậu học, nhất là người xuất gia, phản tỉnh và thức tỉnh.
Đối tượng trọng tâm của tập Cẩm Nang này là người xuất gia, song hoàn toàn ứng dụng cho kẻ tại gia. Khi đọc Cẩm Nang, bạn hãy hình dung như có một vị Tăng già hiền từ, chín mươi tuổi ngoài, đang nói chuyện cùng mình vậy.
Sách này, đọc là để áp dụng; đây không phải là tiểu thuyết, truyện, hay sách nghiên cứu để tăng kiến thức. Khi được đọc để áp dụng như thuốc lành trị bệnh hay như gậy đỡ chân, thì tập Cẩm Nang này sẽ giúp chúng ta thay đổi cái nhìn, sửa thói hư tật xấu, trừ suy nghĩ lầm lẫn, hướng dẫn bước tu đúng đắn. Khi đó, ánh sáng bất tận của chánh pháp sẽ chắc chắn tràn ngập nơi nơi, trong tâm bạn và những gì quanh bạn.
Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm
Hòa thượng Quảng Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên tục là Văn Lai, quê ở Phúc kiến, Trung Hoa.
Gia đình Ngài rất nghèo, đến độ anh ruột Ngài không có đủ tiền để cưới vợ. Năm Ngài bốn tuổi, vì không đủ sức nuôi dưỡng Ngài, cha mẹ Ngài phải đem Ngài bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn Giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời sống bằng nghề trồng trọt. Họ thương yêu Ngài như con ruột vậy. Bà Lý là người tin Phật sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem Ngài lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ, Ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt.
Năm Ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau, dưỡng phụ Ngài cũng nối gót từ trần, khiến Ngài bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất đai ruộng vườn, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Điều ấy khiến Ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự. Trong đầu Ngài nảy sinh ý niệm thoát trần.
Ngài đem hết của cải, đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới chùa Thừa Thiên ở Phúc Châu xin xuất gia.
Bấy giờ, phương trượng chùa Thừa Thiên là Hòa thượng Chuyển Trần dạy Ngài quy y, tu khổ hạnh với thầy Thụy Phương. Ngài được phân phối cho việc lao tác, trồng rau, nhổ cỏ… đây là những việc công quả tập sự dành cho người muốn xuất gia.
Đến năm 19 tuổi, do nhiều nhân duyên đặc biệt, Ngài đã qua Nam Dương. Ở đây, vì không có trình độ học vấn nên Ngài phải làm việc lao động chân tay. Một hôm, nhân cùng đồng bạn lên núi đốn củi, Ngài nói với bạn về trực giác linh cảm của mình rằng; chiếc xe vận tải chở củi sẽ lật ở dốc núi, nhưng không ai tin. Không lâu, chiếc xe quả nhiên bị lật thật. Điều này khiến bạn Ngài ngạc nhiên, bảo rằng: “Có được trực giác như vậy sao anh không chịu tu hành, phát triển tâm linh, sau này độ thế?”. Nghe qua, Ngài như chợt tỉnh, liền đáp thuyền về lại Trung Hoa. Bấy giờ, Ngài đã 35 tuổi, sau gần 16 năm sống ở Nam Dương.
Về lại chùa Thừa Thiên, Ngài chính thức xuống tóc, lạy Hòa thượng Thụy Phương làm thầy, pháp danh của Ngài là Chiếu Kính, tự Quảng Khâm. Sau khi xuất gia, Ngài chuyên chú tu khổ hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu làm, thường luôn ngồi thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian, Ngài giữ trách nhiệm Hương đăng (thắp nhang, quét tước điện Phật) và đánh bảng thức chúng mỗi sáng. Nhiều lần, Ngài ngủ say quá nên trễ nải việc đánh bảng. Điều này, khiến Ngài vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập trí ngủ ngồi.
Năm 1933, sau sáu năm làm Sa-di tu khổ hạnh, bấy giờ Ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ-kheo nơi Hòa thượng Diệu Nghĩa, chùa Từ Thọ, Phủ Điền. Thọ giới rồi, Ngài liền xin phép phương trượng Chuyển Trần đi ẩn tu; lúc ấy Ngài vừa đúng 42 tuổi.
Bấy giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo. Ngài nhắm núi Thanh Lương, tỉnh Tuyền Châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, Ngài tìm thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu đạo. Động này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng khi gặp hổ, Ngài chẳng sợ hãi. Ngài bảo chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý Ngài, rõ lời người. Ngài lại vì hổ mà thuyết tam quy y; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con… đùa giỡn, gần gũi với Ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này, người dân quanh đấy gọi Ngài là Phục Hổ hòa thượng.
Bấy giờ, Hòa thượng ở sơn động, ngày ngày tọa thiền, niệm Phật. Chẳng bao lâu, lương thực cạn sạch, Ngài bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; chúng lại đem cả hoa quả cây trái lại cúng dường Ngài nữa!
Hòa thượng thường hay nhập định. Có lần, Ngài nhập định đến vài tháng, không ăn uống, không động đậy thân thể, thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Có người gần đó thấy vậy thì lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên tức tốc cấp báo với Hòa thượng Chuyển Trần để lo việc hỏa táng. May thay, lúc ấy có vị cao tăng là Đại sư Hoằng Nhất đang ở chùa gần đấy, nghe được tin trên bèn cùng Hòa thượng Chuyển Trần lên núi xem thực hư. Tới nơi, Đại sư Hoằng Nhất biết Ngài đang nhập định, liền gõ ba tiếng khánh, đánh thức Ngài dậy từ trạng thái thiền định. Tin Ngài nhập định lan truyền khắp nơi khiến ai ai cũng tán thán.
Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa thượng đã ở trên núi Thanh Lương được 13 năm. Bấy giờ, Ngài đã 54 tuổi (1945), trở về chùa Thừa Thiên. Hai năm sau, 1947 Ngài rời Đại lục, đáp thuyền tới Đài Loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng pháp của Ngài:
Năm 1948, Ngài xây một ngôi chùa nhỏ ở Đài Bắc, tên là Quảng Minh Tự.
Năm 1951, xây Quảng Chiếu Tự.
Năm 1952, Ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành Phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, Ngài đặt tên là Nhật Nguyệt Động và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy, xưa nay vốn không có nước, song từ khi Ngài vào ở, bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy, Ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu pháp; Ngài liền vì nó thuyết pháp và truyền tam quy y.
Năm 1955, tín đồ ở Đài Bắc cúng dường Ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên, Ngài bèn xây Thừa Thiên Tự ở đó.
Năm 1963, Ngài hưng kiến Tường Đức Tự, xây Quảng Long Tự ở núi Long Tỉnh.
Đến năm 1964, Ngài đã ở Đài Loan được 17 năm. Trong suốt thời gian ấy, Ngài đã nhập định ba lần và mỗi lần lâu hơn cả tháng. Hằng ngày, Ngài chỉ ăn một bữa và chỉ ăn trái cây; Ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi Ngài là Thủy Quả hòa thượng (thầy ăn trái cây).
Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi đêm Ngài đều ngồi tọa thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong phòng như kẻ khác. Đấy là những công hạnh đặc biệt của Ngài.
Năm Ngài 80 tuổi, có lần Ngài biểu thị cho đại chúng biết ý định xả báo nhập định của Ngài. Lúc ấy, các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin Ngài tiếp tục từ bi trụ thế. Bấy giờ, Ngài vì tùy thuận chúng sinh nên trì hoãn việc nhập định, tiếp tục công cuộc độ sinh. Từ ấy, Ngài đi Nam Đầu, Đài Trung, Gia Nghĩa, Hoa Liên, v.v… hoằng pháp độ chúng.
Đến năm 84 tuổi, Ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại chùa Thừa Thiên trên núi Thanh Lương, không còn xuống núi nữa. Công cuộc xây chùa vẫn tiếp tục, song do các đệ tử của Ngài chủ động: trùng tu Chùa Thừa Thiên, xây Quảng Thừa Nham (1974), Diệu Thông Tự (1982).
Năm Ngài 94 tuổi (1985), Ngài chủ trì Tam Đàn Đại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị tăng, ni và cư sĩ; tạo thành một pháp hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Đài Loan lúc bấy giờ.
Bấy giờ, tuy đã gần kề trăm tuổi, Ngài vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc; lời nói của Ngài bình dị, khiêm nhường; bước đi của Ngài vẫn vững chãi, không cần dùng tới gậy chống, không nhờ người đỡ tay. Nếu ai gặp Ngài lúc ấy sẽ thấy thân Ngài vô cùng nhẹ nhàng, linh hoạt; động tác thanh thoát. Ngài vẫn y nhiên ngủ ngồi, không nằm; và vẫn ngồi ngoài vườn lộ thiên tĩnh tọa mỗi đêm. Bấy giờ, thức ăn trái cây của Ngài phải được nghiền bằng chất lỏng để dễ ăn.
Cuối năm 1985, Ngài trở về chùa Thừa Thiên. Ngài thị hiện có bệnh, cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men, cũng không tiếp kiến tín đồ.
Ngày Tết Nguyên đán năm ấy, 1986, Ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Ngài chỉ bảo việc hỏa táng, phân chia linh cốt tại Thừa Thiên Tự, Quảng Thừa Nham và Diệu Thông Tự, đồng thời trả lời mọi nghi vấn của tín chúng.
Sáng ấy, sau giờ thọ trai, Ngài quyết định xuống Diệu Thông Tự ở Cao Hùng.
Hôm sau, mồng hai Tết, khí lực của Ngài vô cùng suy nhược.
Mồng ba Tết, thể lực của Ngài bình phục. Ngài cùng đại chúng lên điện niệm Phật. Ngài lại nói chuyện một cách thong dong tự tại với các tín đồ đệ tử, tinh thần vô cùng sáng suốt và lạc quan như không có chuyện gì xảy ra.
Sáng mồng bốn Tết, Ngài gọi tất cả các đệ tử cùng Ngài ra bên ngoài điện đón nắng. Ngài nói với một đệ tử, thầy Truyền Văn, rằng:
– Ngươi được rồi đấy. Song bọn họ, đại chúng, còn chưa xong đâu!
Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 02 năm 1986), Ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng chút xao động, rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật.
Vào hai giờ chiều hôm ấy, Ngài bảo đại chúng:
– Vô lai vô khứ, một hữu sự! (chẳng đến chẳng đi, chẳng việc gì).
Rồi nhìn đại chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại chúng thấy Ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay Ngài đã an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi.
Nhìn lại cả đời Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị. Đến khi xuất gia, Ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất khả tư nghì. Sau khi xuống núi, tới Đài Loan hoằng dương Phật pháp, Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sinh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm giới, từ hữu hình đến vô hình… Và, nhất là sự viên tịch vô cùng tự do tự tại của Ngài, một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật pháp, cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt đạo của những bậc chân tu, thật hành.
Thầm nguyện Hòa thượng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này để không ngừng đưa lớp lớp chúng sinh tới bờ bên kia, đến nơi an ổn, vô úy, vô ưu não!
Mời quý bạn đọc Cẩm nang tu đạo – Hòa Thượng Quảng Khâm tại file PDF dưới đây.
[pvfw-link viewer_id=”2415″ text=”Cẩm nang tu đạo – Hòa Thượng Quảng Khâm” class=”pdf-viewer-link-single” target=”_blank” default_zoom=”auto” pagemode=”none”]