Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Khai thị lúc lâm chung – Cách thức trợ niệm – Cách thức truy tiến

Người bệnh từ khi đau nặng cho đến khi sắp tắt hơi, thì thân nhân phải bình tỉnh không được khóc lóc và không được lộ nét bi ai, sầu thảm.

Khai thị lúc lâm chung

Người niệm Phật khi bịnh chưa nặng vẫn nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ nghĩ tưởng rằng, uống thuốc rồi sẽ lành bệnh. Lúc bệnh nặng có thể không nên dùng thuốc.

Hoằng Nhất đại sư khi đau nặng có kẻ thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng:

“Đức Phật A-di-đà
Là vô thượng Y Vương
Nếu bỏ đây không cầu
Ấy là kẻ si cuồng!
Một câu hồng danh Phật
Là thuốc diệu A-di-đà
Nếu bỏ đây không uống
Thật lầm to lắm mà!”.

Rồi Ngài chỉ chuyên tâm niệm Phật quả nhiên cũng lần lần thuyên giảm.

Nên nhớ rằng khi bệnh đã nặng thì người niệm Phật phải buông bỏ tất cả mọi việc xung quanh ngay cả chính thân tâm mình, mà chỉ chuyên nhất niệm Phật, một lòng cầu mong vãng sinh Tây phương. Làm được như thế, nếu thọ mạng đã hết thì quyết định vãng sinh. Như thọ mạng chưa dứt thì tuy cầu vãng sinh mà trở lại mau lành bệnh, do vì lòng mình chuyên thành nên đã trừ diệt nghiệp ác đời trước.

Trái lại, nếu chẳng buông bỏ mọi duyên và cứ để cho lòng rối loạn, như thọ số đã hết quyết không được vãng sinh vì mình chỉ chuyên cầu lành bệnh chứ không cầu về với Phật, nên làm sao mà vãng sinh cho được? Nếu thọ mạng chưa dứt thì chẳng những bệnh không thuyên giảm mà bệnh lại tăng thêm vì mình nhân cầu lành bệnh, vọng sinh lòng buồn lo, sợ hãi.

Lúc bệnh nhân đã suy yếu lắm, nếu thần thức còn thành tỉnh, thì người nhà nên thỉnh bậc tri thức đến thuyết pháp khai ngộ cho. Nếu không có thì nên mời một vị bạn đồng tu đến an ủi và khai thị theo các chi tiết sau:

Thứ nhất: Nói cảnh khổ ở Ta bà, diễn tả cảnh vui ở Cực lạc, lại nên đem việc lành kể rõ ra và khen ngợi, khiến cho người bệnh sinh lòng vui mừng không còn nghi ngại, tự biết mình sẽ nương nơi nghiệp lành ấy mà sinh về Tây phương.

Thứ hai: Nếu bệnh nhân có điều gì nghi ngờ thì nên giải thích bằng ba điểm cốt tủy đã nêu trên.

Thứ ba: Vị khai đạo phải can ngăn không cho thân nhân hỏi han về di chúc, không cho nói chuyện tạp vô ích khiến bệnh nhân động niệm tình ái, quyến luyến thế gian.

Thứ tư: Không cho bà con thân hữu đến trước bệnh nhân mà hỏi han tỏ vẻ buồn thảm mến tiếc. Nếu vì cảm tình và đến thì khuyên họ vì bệnh nhân, chấp tay niệm Phật ra tiếng một hồi, đó mới thật là có lòng thương mến.

Thứ năm: Nên khuyên bệnh nhân đem y phục vật dụng, và cả tiền bạc của mình mà tặng cho kẻ khác. Hoặc đem các thứ ấy mà cúng dường kinh tượng Phật, thì càng hay.

Điều này cũng giúp cho người bệnh tăng thêm phước lạc và tiêu trừ tội chướng, được dễ dàng hơn trong việc vãng sinh như trong kinh Địa Tạng đã chỉ dạy.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Cách thức trợ niệm

Người bệnh từ khi đau nặng cho đến khi sắp tắt hơi, thì thân nhân phải bình tỉnh không được khóc lóc và không được lộ nét bi ai, sầu thảm. Bởi vì lúc này chính là lúc bệnh nhân đang đi đến ngã rẽ phân chia quỉ người phàm thánh. Sự khẩn yếu nguy hiểm khác thường, như ngàn cân treo trước sợi tóc. Chỉ nhất tâm niệm Phật giúp vào là điều quan trọng nhất. Có người tuy có chí nguyện vãng sinh, mà bị quyến thuộc thương khóc, làm khơi động ý niệm tình ái, kết cuộc phải bị đọa lạc luân hồi, công tu một đời đành luống uổng.

Người sắp chết thường đau nhức cơ thể, nên chớ ép buộc tắm rửa hoặc thay đổi áo quần làm nhiễu loạn chánh niệm. Đôi khi bệnh nhân có thể sinh về cõi lành, nhưng bị thân nhân xúc chạm thân thể và sửa đổi tay chân, làm thêm đau đớn nên sinh lòng tức giận. Do ý niệm này, liền đọa vào đường ác làm rồng rắn cọp beo hoặc các loài thú dữ khác.

Có người dù hằng ngày luôn luôn niệm Phật, nhưng nếu không nhờ sức trợ niệm thì cũng khó nhất tâm để vãng sinh. Cách thức trợ niệm phải theo các chi tiết sau:

Một là: Thỉnh tượng Phật A-di-đà tiếp dẫn, đặt ngay trước mặt bệnh nhân, để cho họ trông thấy. Cắm một bình hoa tươi, đốt một lò hương nhẹ để dẫn khởi chánh niệm, nên nhớ chỉ có khói nhẹ mà thôi, đừng để khói nhiều vì e ngột ngạt khó thở.

Hai là: Người trợ niệm tùy theo nhiều hay ít, nên luân phiên mà niệm. Ít thì mỗi lượt có thể hai hoặc ba người, nhiều thì mỗi lượt có thể sáu bảy người. Nên nhớ bệnh nhân rất cần thanh khí, do đó chớ cho vào quá đông người, lại phải nhìn đồng hồ mà im lặng luân chuyển cho nhau, cốt sao cho câu niệm Phật tiếp tục không gián đoạn.

Ba là: Niệm bốn chữ hay sáu chữ phải tùy theo tập quán của bệnh nhân, và tiếng niệm phải đừng quá cao, đừng quá thấp, đừng quá nhanh, đừng quá chậm, mỗi chữ mỗi câu đều rành rẽ rõ ràng, khiến cho câu hồng danh lọt qua tai đi sâu vào tâm thức của người bệnh, như thế mới đắc lực. Khi bệnh nhân quá hôn trầm thì phải kê miệng sát vào tai họ mà niệm, mới có thể khiến cho họ minh tâm.

Bốn là: Nên niệm suông là thỏa đáng hơn cả, hoặc nếu có dùng âm thanh thì nên dùng chuông mõ lớn, khiến cho người bệnh sinh tâm nghiêm kính tuy nhiên điều này phải hỏi trước bệnh nhân, nếu có điều chi không hợp thì nên tùy cơ nghi mà cải biến, chớ nên cố chấp.

Cách thức truy tiến

Người mới tắt thở, điều thiết yếu là không nên vội di động, không nên vội lau rửa, phải đợi qua tám giờ đồng hồ mới nên tắm rửa và thay đổi y phục. Trước và sau khi chết, người thân cũng không được khóc lóc, chỉ nên gắng sức niệm Phật, mới thật sự có ích lợi cho vong nhân. Nếu muốn khóc lóc, phải đợi tám giờ sau. Vì bệnh nhân tuy tắt hơi nhưng thức A lại da còn chưa đi hẳn, nếu lúc ấy làm lay động hoặc kêu khóc, họ vẫn còn cảm giác đau đớn hoặc sinh ý niệm buồn giận, lưu luyến, mà phải sa đọa.

Điều này rất quan hệ và cần thiết nên phải để ý ghi nhớ cho kỹ.

Sau khi bệnh nhân tắt hơi, thì thân nhân vẫn phải tiếp tục niệm Phật cho đến tám giờ sau, để sự vãng sinh có phần bảo đảm. Nên đóng cửa phòng lại, canh chừng loài chó mèo hoặc những kẻ không am hiểu đến đổ xô vào xúc phạm. Ngoài ra đều cấm tuyệt không nên làm điều chi khác, vì trong khoảng thời gian này, người chết vẫn còn cảm giác.

Tám giờ sau, nếu tay chân người chết đã cứng thì nên dùng vải, thấm nước nóng bao quanh khớp xương, một lát thì có thể sửa tay chân co duỗi như thường.

Trong đám tang của người quá cố thì thân nhân nên làm đơn giản, đừng quá rườm rà mà tốn kém vô ích. Điều cần thiết là nên dùng đồ chay và chớ có sát sinh để chiêu đãi khách và cúng tế nếu không thì người quá cố sẽ bị oán đối, khó được giải thoát, dù được vãng sinh, thì phẩm sen cũng vì đó mà bị giảm thấp.

Khi làm Phật sự để truy tiến cho người quá cố thì thân nhân nên đem công đức ấy mà hồi hướng khắp chúng sinh trong pháp giới. Như thế, công đức ấy sẽ càng thêm rộng lớn, mà sự phước lợi cũng vì đó mà tăng thêm rất nhiều.

Bởi vì buổi lâm chung chính là lúc quan trọng nhất trong cuộc đời, nếu không chuẩn bị trước các món tư lương cho đầy đủ, thì đến chừng ấy ắt phải kinh hoàng bối rối, kêu cầu không kịp và nghiệp ác trong nhiều kiếp đồng loạt hiện ra, làm sao giải thoát?

Cho nên, tuy lúc lâm chung phải nhờ đến kẻ khác trợ niệm, nhưng chính mình lúc bình nhật phải cố gắng tu trì, chừng ấy mới được tự tại, nên chúng con xin dự bị ngay từ bây giờ.

Như vậy, đệ tử chúng con cảm nhận ơn lành cao cả của đức Từ phụ A-di-đà, được sự hộ trì của sáu phương chư Phật, được sự dạy dỗ chu đáo của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, được sự nhắc nhở và dìu dắt của các bậc Thiện tri thức cho nên ngày nay mới biết rằng niệm Phật phải dự bị lúc lâm chung, để cuối cùng được dễ dàng vãng sinh về tham dự hải hội Liên Trì, để khỏi phụ ơn cứu độ và giáo dục của chư Phật, cũng như khỏi mắc vào cái lỗi phụ rẫy cả chính mình.

Đệ tử chúng con vẫn thấy rằng biển khổ dễ chìm, mà hễ chìm là cứ trôi hoài trôi mãi, và đường tu thì khó bước mà mỗi bước là gặp biết bao chông gai thử thách.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy nhân sinh có hai mươi việc khó:

“Nghèo nàn mà bố thí là khó
Giàu sang mà học đạo là khó
Xả thân quyết chết là khó
Xem được kinh Phật là khó
Nhịn sắc lìa dục là khó
Sinh gặp đức Phật ra đời là khó
Thấy tốt không cầu là khó
Bị nhục chẳng giận là khó
Có thế lực không ỷ lại là khó
Gặp việc đời cư xử vô tâm là khó
Học rộng nghiên tầm nhiều là khó
Trừ bỏ ngã mạn là khó
Không khinh kẻ chưa học là khó
Tâm hành bình đẳng là khó
Chẳng nói việc thị phi là khó
Được gặp Thiện tri thức là khó
Thấy tánh học đạo là khó
Tùy duyên hóa độ kẻ khác là khó
Đối cảnh không động tâm là khó
Khéo biết phương tiện là khó”.

Quả thật như vậy, sinh gặp đời có Phật là khó, vì sao? Vì được thấy Phật nghe Pháp và y theo lời dạy mà phụng hành thì phải là người có nhiều căn lành, phước đức, nhân duyên. Nay Như Lai đã diệt độ, các bậc Thiện tri thức hiện ra hoằng dương Phật pháp, nếu được thân cận nghe lời khuyên dạy thì cũng được giải thoát.

Nhưng kẻ căn lành sơ bạc thì gặp Thiện tri thức cũng là khó khăn. Dù có duyên lành được thấy mặt nghe Pháp nhưng nếu không hiểu nghĩa lý hoặc chấp hình thức bên ngoài mà không chịu tin theo thì cũng đều vô ích.

Theo kinh Hoa Nghiêm, muốn tìm cầu Thiện tri thức thì đừng nên câu nệ theo hình tướng bên ngoài, như chấp kẻ ấy trẻ tuổi, nghèo nàn, địa vị thấp, hoặc dòng dõi hạ tiện, tướng mạo xấu xa, các căn chẳng đủ, mà chỉ cầu người thông hiểu Phật pháp để có thể làm lợi ích cho mình. Lại đối với bậc Thiện tri thức thì chớ nên tìm cầu sự lỗi lầm, bởi vị đó có khi vì mật hạnh tu hành, vì phương tiện hóa độ, hoặc đạo lực cao nhưng tập khí còn chưa dứt, nên mới có các hành động sai trái như vậy. Nếu cứ chấp nê hình thức hay tìm cầu lỗi lầm thì tất không được lợi ích trên đường đạo.

Cho nên, nhìn tìm bậc Thiện tri thức là khó đến như thế!

Tuy nhiên, cái khó và cái dễ chỉ là pháp đối đãi vì trong khó có dễ và trong dễ có khó. Nếu nhận hiểu và quyết tâm thì các việc khó đến mấy cũng vẫn có thể thành tựu.

Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, nay nhờ sự gia bị của ơn Tam bảo mà chúng con có được thân người. Nay nhờ duyên lành mà chúng con được đón nhận sự giáo hóa của đức Bổn sư. Nay nhờ Từ bi lực của Phật A-di-đà mà chúng con đã đặt trọn vẹn lòng tin vào bản nguyện cứu độ của Ngài. Nay nhờ sức sách tấn của chư vị Thiện tri thức mà chúng con được đọc tụng cuốn sách này, tức là đã gặp được Pháp thành Phật mầu nhiệm, dễ dàng và rốt ráo.

Ngưỡng nguyện mười phương Tam bảo, chư vị đại địa Bồ-tát, cùng liệt vị Hộ Pháp Thiện Thần, đem năng lực bản nguyện, năng lực trí tuệ, năng lực thần thông, năng lực diệt sạch tội chướng mà ban thêm cho chúng con nhiều sức mạnh cùng trí sáng suốt để dù gặp phải hoàn cảnh khó khăn vẫn nhận rõ duyên đời khổ mộng quyết chí niệm Phật, trường trai giữ giới, khiến cho hoa sen báu bên tròi Tây được nở thêm những hàng thượng thiện.

Với tấm lòng tri ân, đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy y và đảnh lễ:

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Cực lạc Giáo chủ Đại từ đại bi A-di-đà Phật.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát
Nam mô Lư Sơn đạo tràng, khai sáng niệm Phật pháp môn, sơ tổ Huệ Viễn đại sư Bồ-tát.
Nam mô Quang Minh Đạo tràng Hoằng dương niệm Phật pháp môn Nhị tổ Thiện Đạo đại sư Bồ-tát.
Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ-tát Liệt vị Thiện Thần Bồ-tát Ma ha tát.

Trích: Niệm Phật Sám Pháp – Khai thị lúc lâm chung – Cách thức trợ niệm – Cách thức truy tiến!

Bài viết cùng chuyên mục

Tâm thanh tịnh rất quan trọng, làm sao tu tâm thanh tịnh?

Định Tuệ

Phóng sanh tiêu trừ được bệnh tật, được công đức vô lượng

Định Tuệ

Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả nên hiểu thế nào?

Định Tuệ

Tỳ Kheo có nghĩa là gì? Năm đặc tính của Tỳ-kheo

Định Tuệ

Tu trong mọi hoàn cảnh

Định Tuệ

Năng sở giai không, liễu bất khả đắc

Định Tuệ

Chú vãng sanh là gì? Nguồn gốc, ý nghĩa và công năng của chú

Định Tuệ

Phóng sinh là gì? Phóng sinh có những công đức gì?

Định Tuệ

Công đức và Phước đức nhất định phải phân biệt, hiểu rõ ràng

Định Tuệ

Viết Bình Luận