Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

10 Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát – Nguyện thứ hai: Xưng tán Như Lai

Xưng tán, bạn thấy dùng “xưng tán Như Lai”, không dùng “xưng tán chư Phật”. Từ dùng khác nhau đương nhiên ý nghĩa sẽ không giống nhau.

Nguyện thứ hai, “Xưng tán Như Lai”.

Câu này ở vào xã hội ngày nay rất là quan trọng. Xã hội có thể an định hay không, hoặc là xã hội tạo thành động loạn, đương nhiên nhân tố rất nhiều. Thế nhưng, một nhân tố quan trọng nhất trong đó, ở trong Phật pháp gọi là duyên. Một duyên quan trọng nhất này chính là tán thán, cũng chính là ngôn ngữ lời nói của chúng ta. Hy vọng đồng tu học Phật chúng ta, đây không phải tôi hy vọng, mà là Phật Bồ Tát dạy bảo chúng ta. Phật Bồ Tát hy vọng chúng ta ở trong xã hội này ẩn ác, dương thiện. Bạn xem Kinh văn phía sau, trong lời giáo huấn cụ thể, Phật dạy chúng ta, khéo giữ ba nghiệp. Câu thứ nhất chính là “khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”, không nên cười chê người khác, không nên nói lỗi lầm của nhà người, phải làm từ chỗ này. Người ta có chỗ tốt thì phải tán thán, phải biểu dương, xã hội này chúng ta liền có thể từ trong hỗn loạn chuyển thành an định. Mỗi một người chúng ta đều có trách nhiệm.

Xã hội ngày nay vì sao mà loạn như vậy? Toàn thế giới đều loạn, căn nguyên của động loạn là gì? Chúng ta có thể nói, căn nguyên đó chính là người thế gian này tán thán cái ác mà che giấu cái thiện. Thiện thì không nói lên, ác thì tận lực tuyên dương, tận lực đến tô vẽ ra, tạo thành lòng người của cả thế gian bất an. Bạn nói làm việc tốt, có người nói: “Anh làm việc tốt làm gì? Anh là kẻ ngốc, anh làm việc tốt ai tán thán anh? Làm việc ác là anh hùng hảo hán, biết bao nhiêu người tán thán anh”. Khuyến khích người đi phạm tội, khuyến khích người đi làm ác, thì xã hội này làm sao có thể an định. Lời nói của chúng ta phải vì xã hội gánh trách nhiệm, phải vì nhân dân cả thế gian gánh trách nhiệm, làm gì có chuyện tùy tiện mà nói chuyện. Hiện tượng xã hội ngày nay có thể nói là vô cùng phổ biến, đó là luân lý đạo đức không có người giảng. Nếu như trên miệng nói đến luân lý đạo đức thì mọi người đều mắng bạn, “Anh lạc hậu rồi, lỗi thời rồi! Không hợp trào lưu, không hợp thời đại”, nói càng khó nghe hơn là “tư tưởng phong kiến”. Cái gì là hợp thời? Bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa là hợp thời. Như vậy có thể được hay sao? Cho nên xã hội ngày nay, bao gồm giáo dục ở trong trường học, học sinh tiểu học nhận giáo dục đã tiêm nhiễm công lợi, chỉ có lợi hại, không có đạo nghĩa. Xã hội này, thế giới này làm sao mà không gặp nạn chứ? Băng của Nam Bắc Cực làm sao mà không tan ra?

Chúng ta học Phật. Học Phật luôn được xem là người sáng suốt, học Phật là người giác ngộ. Chúng ta phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ xã hội này, thay đổi thói xấu, phong tục tập khí không tốt, làm thế nào đem nó chuyển đổi lại. Hoàn toàn dựa vào chính chúng ta, nhất định không thể đem trách nhiệm này đổ cho người khác. Đổ cho người khác là sai, chính ta phải làm cho được. Người thế gian bất trung, ta phải tâm trung. Người thế gian bất nghĩa, ta phải nghĩa khí. Người thế gian bất hiếu, ta phải tận hiếu. Giáo huấn của đại thánh nhân thế xuất thế gian, ta phải toàn bộ làm cho được. Nếu như bạn nói là làm không được, ta không tin tưởng, ta không thừa nhận, ta nhất định có thể làm được. Người người đều có tín tâm kiên định này, ý nguyện kiên định, nỗ lực để làm theo, như phía trước đã nói, Tín Huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng Bồ Tát, thế giới này là có thể cứu vãn, kiếp vận có thể vãn hồi, tai nạn có thể hóa giải. Do đây có thể biết, chính ngay ở mỗi vị đồng tu chúng ta phải phát đại tâm. Trên Kinh Hoa Nghiêm nói “Đại Tâm Phàm Phu”, chúng ta là phàm phu phát đại tâm. Đại Tâm Phàm Phu, công đức và uy đức của họ vượt qua Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát. Thanh Văn là A La Hán. Duyên Giác là Bích Chi Phật. Quyền Giáo Bồ Tát, nếu lấy Thiên Thai đã nói, Biệt Giáo để nói thì là Bồ Tát Tam Hiền trở xuống, chính là Bồ Tát từ Thập Hồi Hướng trở xuống gọi là Tam Hiền Bồ Tát.

Sao gọi là phát đại tâm phàm phu? Bạn vừa phát tâm là ta đem giáo huấn trong Kinh Vô Lượng Thọ đã dạy thảy đều làm được, công đức của bạn lập tức liền vượt qua bậc tam thừa, thật đã vượt qua không phải là giả, liền được siêu việt. Trên Kinh Hoa Nghiêm Phật nói “Đại Tâm Phàm Phu” là khích lệ chúng ta. Nếu như Ngài nói A La Hán mới có thể làm được thì chúng ta không có phần, chúng ta nhất định không làm được, tâm này không thể phát. Nếu như Ngài nói Bồ Tát mới có thể làm, vậy thì cự ly phàm phu chúng ta quá xa với Bồ Tát. Cho nên Ngài nói phàm phu, chúng ta là phàm phu, chúng ta phát ra đại tâm liền có thể siêu việt ba thừa. Lời của Phật nói là thật, không phải là giả, nhất định là chân thật, chỉ sợ chính chúng ta không chịu phát tâm. Vừa phát tâm liền siêu việt, chân thật gọi là “buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật”. Phát tâm là quan trọng. Khi vừa phát tâm, xin nói với các vị, không chỉ bạn siêu việt ba thừa. Tầm nhìn của người thế gian rất cạn, chỉ mong cầu cái lợi trước mắt, nếu hiện tại không có lợi ích, anh bảo tôi làm Phật, tôi cũng không làm, cho nên hiện tại liền phải có lợi ích. Xin nói với các vị, chỉ cần bạn vừa phát đại tâm, hiện tại bạn liền có được lợi ích. Bạn được lợi ích gì vậy? Ngay trong lúc giảng dạy chúng ta cũng thường nói, “đời sống vật chất của bạn quyết định không hề thiếu kém”, đây là lợi ích mà hiện tiền bạn có được. Việc này Phật giảng rất có đạo lý. Không phải nói bạn sẽ có được rất nhiều, rất nhiều, như vậy thì bạn liền sẽ tăng lòng tham, mà là không thiếu hụt. Mỗi ngày bạn có được cái ăn, có quần áo mặc, có nơi để ở, không thiếu hụt. Chỉ cần chúng ta không thiếu hụt, không cần phải có nhiều, có nhiều sẽ tăng thêm lòng tham. Cơm áo của bạn không thiếu hụt, đời sống vật chất không thiếu hụt, ngay trước mắt bạn đã được lợi ích.

Lợi ích thứ hai là thân thể bạn khỏe mạnh, trẻ mãi không già. Nếu như bạn hai mươi tuổi phát đại tâm rồi, đã làm đại tâm phàm phu, bạn mãi mãi là hai mươi tuổi. Bạn sống đến bảy, tám mươi tuổi, khuôn mặt của bạn vẫn là hai mươi tuổi. Cái lợi ích này có gì bằng không? Một lợi ích nữa là thể chất chuyển biến. Thân thể bạn khỏe mạnh, vĩnh viễn không bị bệnh, đó là lợi ích hiện tiền, lợi ích chân thật. Bạn làm quan lớn, phát tài to mà thường hay bị bệnh thì đó là việc rất đáng tiếc, tiền tài của bạn đều dùng hết vào phí thuốc thang, bạn nói xem có oan uổng không? Cho nên đại tâm phàm phu vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn khỏe mạnh, dung mạo sáng lạn, pháp hỉ tràn đầy, tự tại an vui. Hiện tại liền có được lợi ích. Phật pháp rất hiện thực, hiện thực hơn bất cứ thứ gì.

Nếu như bạn trái với Kinh giáo, không luận tu hành thế nào, người sáng mắt vừa nhìn là biết ngay, vì sao vậy? Trên mặt không có ánh sáng. Không cần phải có công năng đặc dị gì, nếu có công năng đặc dị vừa nhìn thì càng rõ ràng, người thông thường chúng ta đều có thể xem thấy, chính là chúng ta thường hay nói thần khí không tốt, có thể thấy ra được khí sắc của họ là khí sắc tối đen, không phải là một khí sắc sáng lạn, một khí sắc không tốt. Khi bạn tỉ mỉ quan sát tiếp sẽ thấy dung mạo không tốt, cho dù họ hóa trang thế nào cũng không cách gì giấu được, cũng không thể che giấu. Ngay thế gian xem tướng, đoán mạng cũng thường nói “tướng tùy tâm chuyển”. Đại tâm của bạn vừa phát ra, đại tâm là tâm gì? Là Phật tâm. Bạn xem tướng của Phật đẹp dường nào, cái tướng này của bạn dần dần sẽ chuyển thành tướng Phật, đức tướng viên mãn (viên mãn chính là một chút kém khuyết cũng không có), vậy thì vì sao bạn không phát tâm?

Trong tâm chúng ta thường giữ một mặt thiện của tất cả chúng sanh, miệng của chúng ta thường hay tán thán một mặt thiện của chúng sanh, thì chúng ta tâm thiện, làm thiện, lời nói thiện, tướng mạo của chúng ta liền thiện, thân thể liền thiện, không có thứ nào bất thiện. Nếu như thường giữ tâm ác, chuyên môn gây phiền phức cho người, chuyên môn nhìn khuyết điểm của người khác, tâm của chúng ta ác, làm ác, nói ác, cuối cùng biến thành tướng mạo chính chúng ta cũng ác, thân thể cũng ác, bạn nói xem họa làm sao mà không đến. Người học Phật ngay điểm đạo lý này cũng không hiểu thì còn học cái gì. Vận mệnh của bạn hoàn toàn do chính bạn nắm lấy, không phải do người khác nắm lấy.

Các vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, Liễu Phàm Tứ Huấn ngày trước tôi đã giảng qua rất nhiều lần, giảng được rất tỉ mỉ. Tiên sinh Liễu Phàm có thể được cứu là vì sao? Việc thứ nhất là ông thành thật, chịu nhận sai. Việc khó được nhất là chịu thay đổi, mạnh dạn thay đổi. Ông đã thành công, chuyển biến vận mạng của ông. Ông chuyển được vận mạng rồi, ông giúp cho rất nhiều chúng sanh chuyển biến vận mệnh, đó là Bồ Tát hiện thân.

Vào thời đại này, chư Phật Như Lai hết lời khuyên bảo chúng ta phải phát đại tâm. Nếu bạn hỏi, thế nào là đại tâm? Tôi ở ngay đây cụ thể nói với mọi người, nhất định phải phát tâm đem những lời giáo huấn đã nói trong Kinh Vô Lượng Thọ thảy đều làm cho được, thảy đều thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta, thực tiễn ngay trong công việc của chúng ta, thực tiễn ngay trong đối nhân xử thế, đó chính là phàm phu phát đại tâm. Bạn có thể phát được cái tâm này, có thể làm theo như vậy, ở phía trước tôi đã nói qua với các vị, tương lai bạn vãng sanh đến Thế giới Cực Lạc nhất định là thượng thượng phẩm vãng sanh, bởi vì cả thảy bạn đều làm được. Nếu bạn không thể làm được hoàn toàn, chỉ làm đến được 90%, vậy thì bạn vãng sanh thượng trung phẩm, quyết định không thể rơi xuống dưới bậc thượng. Trong ba bậc vãng sanh, bậc trung, bậc hạ chúng ta không làm, chúng ta nhất định phải tranh thủ vãng sanh bậc thượng. Thượng phẩm hạ sanh cũng phải làm đến được 80%. Chúng ta phải đem tiêu chuẩn định ở ngay chỗ này, quyết định tranh thủ thượng phẩm vãng sanh, đó mới là chân thật phát đại tâm phàm phu. Người người đều làm đến được, vì sao chúng ta không làm? Tôi tin tưởng rất nhiều đồng tu ngồi ở ngay đây, luôn có mười mấy – hai mươi mấy người đang làm. Có được mười mấy – hai mươi mấy người đang làm, hội này của chúng ta sẽ vô lượng viên mãn, ngay trong hội này có mười mấy – hai mươi mấy vị Phật trụ thế. Đại tâm này không phải Bồ Tát mà là Phật, chân thật gọi là “chỉ có pháp Nhất thừa, không hai, cũng không ba”. Phàm phu phát đại tâm chính là pháp Nhất thừa. Chúng ta nhất định phải làm thật. Cho nên, phải xưng tán.

Xưng tán, bạn thấy dùng “xưng tán Như Lai”, không dùng “xưng tán chư Phật”. Từ dùng khác nhau đương nhiên ý nghĩa sẽ không giống nhau. Trên Kinh Phật, chuyển đổi danh từ có dụng ý đặc biệt của nó. Chúng ta xem trong Kinh Kim Cang Giảng Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông, ông chú giải được rất tường tận. Trên Kinh Kim Cang có lúc thì nói Chư Phật, có lúc thì nói Như Lai. Cư sĩ Giang nói với chúng ta, phàm hễ nói Chư Phật là từ trên tướng mà nói, từ nơi sự mà nói; phàm hễ gọi Như Lai đều là từ trên tánh mà nói. Kinh Kim Cang là như vậy, Kinh này chúng ta cũng không ngoại lệ, Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng là như vậy. Cho nên chúng ta phải thông hiểu “lễ kính chư Phật” là từ nơi sự tướng mà nói, trên sự tướng thì tất cả phải cung kính. Nếu nói “xưng tán Như Lai” là từ nơi tánh đức mà nói, đó chính là nói rõ, tương ưng với tánh đức chính là thiện, chúng ta phải xưng tán; ác không nói thì tốt, không thể xưng tán, phải xưng tán cái thiện. Thế nhưng lễ kính thì người thiện chúng ta lễ kính, người ác cũng phải lễ kính. Không thể nói người thiện ta tôn kính họ, người ác thì ta không tôn kính họ, vậy thì bạn sai rồi. Người ác tôn kính họ mà không tán thán họ, người thiện thì tôn kính họ cũng tán thán họ, khác biệt ở ngay chỗ này. Cái tâm cung kính đó nhất định không có khác biệt, nhất định là bình đẳng. Việc xưng tán này nhất định tương ưng với tánh đức, khen cái thiện của người, chúng ta từ ngay đó mà học.

Thế gian tất cả chúng sanh, nếu như nói họ ngay trong một đời đều đang làm ác, chưa từng làm qua một việc tốt nào thì tôi không tin, Phật cũng không tin, các vị mọi người cũng sẽ không tin. Tất cả chúng sanh ở thế gian này, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm thiện, ác lẫn lộn. Thế nhưng chính là chúng sanh thời nay nghiệp chướng tập khí sâu nặng, đã làm ra ác nhiều, lành ít. Nếu như có thể chuyển biến lại, chúng ta làm thiện nhiều, ác ít thì toàn phong khí xã hội đều sẽ chuyển biến. Chúng ta tán dương thiện, không nói ác, làm cho những người làm ác đó thời gian lâu rồi họ sẽ giác ngộ, họ sẽ phản tỉnh, sanh tâm hổ thẹn. Người ác cũng có lương tâm, không thể nói họ không có lương tâm. “Ta tạo ra rất nhiều việc ác, mọi người đều không nói, mọi người đều có thể bao dung. Ta làm một chút việc thiện nhỏ như vậy mà mọi người đều tán thán”, cho nên họ liền sẽ hồi tâm chuyển ý, họ liền sẽ ít làm ác, làm thiện nhiều. Nếu như chúng ta không tán thán cái thiện của người khác, ác nhỏ của người ta, chúng ta làm ầm ĩ lên thì sẽ sanh ra hiệu quả ngược lại, sẽ làm cho người ta sanh tâm hối hận đã làm việc tốt, “làm việc tốt, có gì tốt đâu? Có người nào biết đâu, có ai khen ngợi ta đâu? Còn làm ra một chút việc ác thì thiên hạ đều biết”, làm cho những người có ý niệm muốn làm thiện sẽ mất đi ý niệm thiện này. Bạn thấy trên thế giới người ta đều làm ác, biến thành cái gì? Biến thành cái thấy sai lầm là “làm ác là đương nhiên, làm ác là hợp thời”. Cái thấy sai này, cái hiểu lầm này thì thật đáng sợ, dẫn dắt người toàn thế gian bỏ đi ý niệm thiện, tăng trưởng ý niệm ác, không chịu tu thiện, liều mạng để làm ác, mang đến tai nạn lớn cho xã hội này, mang đến thống khổ vô cùng cho tất cả chúng sanh. Truy cứu nguyên nhân căn bản của nó chính là ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, lời nói không cẩn trọng, tạo thành ra hậu quả, tạo thành ra tai nạn. Phật đối với việc này ở trong tất cả Kinh luận đã nói ra rất nhiều, rất nhiều. Chúng ta không lưu ý, không hề tỉ mỉ mà quan sát, không hề cố gắng học tập.

Nguyện “xưng tán Như Lai” này Phật đặc biệt ở trong Năm Mươi Ba Đồng Tham làm ra cho chúng ta xem một tấm gương. Năm Mươi Ba Tham rốt cuộc là như thế nào vậy? Chúng ta phải tường tận. Phật ở trong chương sau cùng của Hoa Nghiêm nêu ra Thiện Tài Đồng Tử, làm thành một tấm gương tu học Đại thừa. Chúng ta tu hành, tu học Đại thừa, cũng chính là nói đại tâm phàm phu. Người như thế nào là đại tâm phàm phu? Thiện Tài Đồng Tử là đại tâm phàm phu mẫu mực. Ngài gặp được Phật pháp, hoan hỉ, tín thọ, lễ Bồ Tát Văn Thù làm thầy. Có lẽ các vị nghe được rồi thì nghĩ: “Oh! Thiện Tài gặp vận may, rất may mắn, gặp được Bồ Tát Văn Thù, một thầy giáo tốt đến như vậy, chúng ta đến nơi đâu để tìm được thiện tri thức?”. Bạn đều không biết được Bồ Tát Văn Thù ở ngay trước mặt bạn mà bạn không nhận biết. Ai là Bồ Tát Văn Thù? Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh chính là Bồ Tát Văn Thù. Văn Thù biểu thị trí tuệ, trong Kinh này tràn đầy trí tuệ viên mãn. Bạn y theo bộ Kinh này mà tu học thì bạn chính là thân cận Bồ Tát Văn Thù, bạn chính là học trò của Bồ Tát Văn Thù. Sau khi học rồi thì lập tức ứng dụng, đó chính là tham học. Cho nên, ở trong hội của Bồ Tát Văn Thù thành tựu được căn bản trí. Sau đó, Bồ Tát Văn Thù khuyên bảo Ngài đi tham học. Tham học biểu thị cái gì? Làm thế nào đem cái chính mình đã học thực tiễn ngay trong đời sống. Năm mươi ba vị thiện tri thức này đều là Bồ Tát, không một ai là phàm phu. Năm mươi ba vị thiện tri thức thị hiện ra tướng nam nữ, già trẻ, các ngành các nghề, cũng giống y như đời sống của chúng ta vậy. Chúng ta từ sớm đến tối, tiếp xúc với tất cả mọi người, tất cả việc, tất cả vật, đó chính là Năm Mươi Ba Tham.

——

00:53 — 34:55

Tất cả mọi người, tất cả việc, tất cả vật mà bạn tiếp xúc qua thảy đều là hóa thân của chư Phật Như Lai, có phải vậy không? Chính là như vậy, một chút cũng không giả. Vì sao vậy? Cảnh tùy tâm chuyển. Bạn phải biết rằng, ngoài chính ta ra, bao gồm tất cả chúng sanh tình dữ vô tình đều là chư Phật Như Lai biến hóa độ ta. Đây là trên “Kinh Hoa Nghiêm” Phật dạy cho chúng ta làm thế nào tu hành chứng quả, một đời viên mãn thành Phật. Ngoài chính mình ra, thảy đều là chư Phật Như Lai, điều này nhất định là chân thật, tuyệt đối không phải là giả. Người thiện là Phật biến hiện, người ác cũng là Phật biến hiện, thuận cảnh là Phật biến hiện, ác cảnh cũng là Phật biến hiện ra, để chúng ta ở ngay trong đó mà tôi luyện, trải sự luyện tâm. Trải qua các cảnh giới này để luyện tâm thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi của chính mình. Ta tôi luyện ở ngay trong đó, đây gọi là thật tu hành, thật công phu, đó là mô phạm của tu hành, tấm gương cho người tu hành. Cho nên, Thiện Tài nhất định không có bạn học, nếu có một bạn học thì cả đời Ngài không thể thành Phật, vì sao vậy? Không thể làm được “lễ kính tán thán”. “Anh là bạn học của tôi, hai đứa mình là gần bằng nhau, tôi không cần phải cung kính với bạn”. Bạn thấy, ở trong tánh đức của bạn đã thiếu đi một phần, tánh đức của bạn không viên mãn. Tất cả cung kính, còn có một cái không cung kính thì bạn làm sao có thể thành tựu? Không nên cho rằng chỉ một điểm nhỏ này không hề gì, ta đối với tất cả đều cung kính, chỉ không cung kính đối với một người, đại khái sẽ không có vấn đề gì đâu. Một mê thì tất cả mê, một giác thì tất cả giác, cho nên tất cả phải cung kính, một cái cũng không được bỏ. Thị hiện của Thiện Tài trên đạo Bồ Đề là “chỉ có một mình ta là học trò, ngoài chính mình ra thì đều là Phật, đều là Bồ Tát, đều là thiện tri thức”. Chúng ta phải có cái thấy như vậy, phải dụng tâm như vậy thì đúng.

Những thiện tri thức này cũng giống y như trong xã hội chúng ta vậy. Có biểu hiện tâm thiện, làm thiện, thì Thiện Tài Đồng Tử lễ kính tán thán, cũng chính là chúng ta làm người học trò “lễ kính tán thán”. Có người biểu hiện tâm bất thiện, việc làm bất thiện, biểu hiện ra cảnh giới ác, nghịch cảnh, thì người học trò, người tu học chúng ta cũng có lễ kính đối với họ, nhưng không có tán thán. Thực tế mà nói, “kính” ý là ở trong tâm, “tán thán” là khẩu nghiệp. Vì sao khẩu không tán thán ác? Tán thán ác thì sẽ dẫn dắt xã hội này làm ác, họ cho rằng làm ác vẫn không tệ, ác có thể làm. Bạn thấy người tu hành đều tán thán, vậy thì còn gì bằng không? Cho nên ác thì không tán thán. Ở trong Kinh văn có rất nhiều vị đại biểu ra như vậy.

Thắng Nhiệt Bà La Môn đại biểu ngu si. Bạn thấy Thiện Tài đi tham vấn ông, có lễ kính cũng như là thấy được thiện tri thức, đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, nhưng không hề có lời tán thán. Cam Lồ Hỏa Vương đại biểu sân hận, tánh tình rất không tốt, rất dễ dàng tức giận, không luận là người nào, chỉ cần hơi đắc tội với ông thì tâm báo thù liền nổi lên vô cùng mãnh liệt. Thiện Tài Đồng Tử tham vấn cũng là đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, không hề tán thán. Vị thứ ba là Phạt Tô Mật Đa Nữ, dùng lời hiện tại của chúng ta mà nói là kỹ nữ, biểu thị cái gì? Biểu thị tham dâm. Thiện Tài Đồng Tử đến tham vấn cũng là đảnh lễ ba lạy, đi nhiễu ba vòng, không hề tán thán. Việc này nói với chúng ta, tiêu chuẩn tán thán là tánh đức Như Lai, bạn tu giới-đinh-huệ thì tán thán bạn, bạn tu tham-sân-si thì không tán thán. Bồ Tát vì sao phải biểu hiện ra điều này? Ở trong xã hội hiện thực có. Bồ Tát biểu hiện chính là xã hội hiện thực, đó là nói với chúng ta, xã hội hiện thực thiện, mặt chánh, có ảnh hưởng tốt với mọi người thì tán thán; mặt trái có ảnh hưởng không tốt đối với xã hội thì không nói, một câu cũng không nói, không tán thán. Nhưng vì sao còn phải tham vấn? Tham vấn có thể học được rất nhiều thứ! Sự việc tốt thì chúng ta phải học tập, những việc không tốt thì chúng ta phải phản tỉnh kiểm điểm, nếu như chính ta có cái lỗi lầm này thì phải thay đổi tự làm mới, cho nên người thiện, người ác đều là thầy giáo tốt.

Khi tôi còn trẻ đi học, thành thật mà nói, tôi có rất nhiều cách thấy, cách nhìn không hề giống với các bạn, ngay đến thầy giáo cũng không hề giống. Có một lần lên lớp (khi đó tôi mười mấy tuổi), trong một bài văn giảng đến Nhạc Phi “tinh trung báo quốc”, nói đến Nhạc Phi thì đương nhiên nói đến Tần Cối, ai mà không tán thán Nhạc Phi, ai mà không mắng Tần Cối. Quan niệm của tôi không hề giống mọi người, tôi nói: “Tần Cối cũng không tệ, anh hùng của dân tộc”. Mọi người trợn mắt nhìn tôi, nói: “Chú là người có đầu óc làm phản, làm sao mà chú có thể có cách nghĩ này?”. Sau đó tôi nói ra cách thấy của tôi. Vì sao hai người đều là anh hùng, đều rất cừ khôi, đều đáng được chúng ta tôn kính? Nhạc Phi dạy chúng ta mặt chánh, phải tinh trung báo quốc, tuy là không may bị hãm hại chết, thế nhưng trung nghĩa của ông, mẫu mực tốt của ông mãi lưu lại đời sau, khi nhắc đến ai mà không nghiêng mình tôn kính. Chúng ta phải học tập với ông, phải bắt chước ông. Còn Tần Cối vì sao cũng là anh hùng dân tộc? Ông dạy chúng ta mặt trái, dạy cho chúng ta ông đã làm việc sai, hãm hại trung lương, bạn thấy người đời sau nhắc đến Tần Cối ai mà không mắng ông. Tần Cối dạy chúng ta không nên làm việc xấu, làm việc xấu sẽ có kết cuộc như ông ấy vậy, ông hiện thân nói pháp cho chúng ta thấy, đó là việc tốt, không phải là việc xấu. Chúng ta xem thấy Tần Cối thì nhất định không dám làm việc xấu, nhìn thấy Nhạc Phi thì chúng ta phải làm việc tốt, hai người đều là thầy giáo, một người là dạy ta mặt chánh, một người là dạy ta mặt trái, hai người đều là thầy giáo tốt. Tôi có thể nói ra một tràng đạo lý này.

Năm mươi ba vị đồng tham đích thực là như vậy, cho nên chúng ta xem thấy người ác, xem thấy việc ác phải phản tỉnh chúng ta có hay không? Có thì lập tức phải sửa, không có thì phải cảnh giác, quyết định không thể làm. Cho nên năm mươi ba vị thiện tri thức là năm mươi ba vị Phật thị hiện, thiện-ác, thuận-nghịch thảy đều có. Đây chính là xã hội hiện tại của chúng ta, chúng ta từ sớm đến tối tiếp xúc tất cả người, tất cả việc, tất cả vật chính là năm mươi ba tham. Nếu như bạn chân thật học Phật, chân thật tu học Đại thừa, chân thật cầu sanh Tịnh Độ, làm học trò của A Di Đà Phật, thì bạn nên biết phải học như thế nào. Đối với người thiện thì chúng ta cung kính, tán thán; đối với người ác thì chúng ta cung kính, nhưng không tán thán; học tập với người thiện thì học tập thiện hạnh của họ; với người ác thì chúng ta cũng phải học tập họ, học tập quyết không thể phạm phải lỗi lầm đó của họ. Chúng ta biết được họ sai rồi, chúng ta nhất định không phạm phải sai lầm của họ. Cho nên, khi xem thấy người ác, việc ác thì như cổ thánh tiên hiền dạy bảo chúng ta, chúng ta phải nỗ lực phản tỉnh, “có lỗi thì sửa, không có lỗi thì khích lệ”. Nếu như chúng ta có lỗi lầm này thì phải mau sửa đổi lại, nếu không có thì khích lệ chính mình không nên phạm những lỗi lầm này. Do đây có thể biết, quần chúng xã hội rộng lớn này đều là thầy giáo của chúng ta, đều là điển hình của chúng ta, đều là mô phạm của chúng ta, đều là đại ân đại đức của chúng ta, thành tựu công đức viên mãn của chúng ta.

Tán thán là thuộc về khẩu nghiệp, bạn thấy nó đặt ở điều thứ hai, quan trọng dường nào! Khẩu nghiệp quyết định không nên khinh suất tạo ra. Tạo khẩu nghiệp này, ở trên “Kinh Địa Tạng” nói tương lai đọa vào địa ngục Cắt Lưỡi, nước đồng đổ vào miệng, giường sắt dính thân, đều là do khẩu nghiệp đã tạo. Trên Kinh Phật nói ra những lời này quyết định không phải là lời dự đoán, quyết không phải là hù dọa người, mà đích thực là chân tướng sự thật. Mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều là nghiệp lực chính chúng ta biến hiện ra. Thế giới trước mắt này của chúng ta, cảnh giới trước mắt này cũng là nghiệp lực chính mình hiện ra. Nếu như bạn không có tạo ra nghiệp này thì cảnh giới này bạn sẽ không thấy.

Khi tôi mới học Phật, chưa xuất gia, ban đầu tiếp xúc Phật pháp, một người bạn giới thiệu cho tôi lão tiên sinh Chu Kính Vũ (người bạn này của tôi là đồng hương với lão cư sĩ Chu). Lão cư sĩ Chu là người học Phật. Ông là người Ôn Châu Chiết Giang. Vào lúc đó tôi còn rất trẻ, mới 26 tuổi, lão tiên sinh lúc đó khoảng 71 tuổi. Ông nhìn tôi như nhìn một đứa bé, rất là thương yêu. Ông đã thành lập một xưởng in Kinh ở Đài Loan, tất cả Kinh sách in ra ông đều tặng cho tôi. Lão tiên sinh lúc đó đã về hưu rồi, chuyên làm công việc in Kinh này. Chuyện kể của ông rất nhiều, chúng tôi thường hay gặp ông là để nghe ông kể chuyện. Những câu chuyện đó đều là thật, không phải là giả. Ông đã từng kể cho tôi nghe một câu chuyện, nói rõ không có nghiệp lực này thì địa ngục ở ngay trước mặt bạn cũng không nhìn thấy. Câu chuyện này như sau:

Đó là câu chuyện của nhạc phụ của ông ở Trung Quốc, tên là Chương Thái Viêm (ông là con rể của Chương Thái Viêm). Chương Thái Viêm là Đại Sư trong giới học thuật Trung Quốc vào đầu năm dân quốc, Phác học Đại Sư, cũng rất nổi tiếng. Ông ở Bắc Kinh. Vào lúc đó Viên Thế Khải đương quyền. Ông không mắng Viên Thế Khải. Vì sao không mắng? Không đáng được ông mắng. Lời nói này về sau có một số người nịnh với Viên Thế Khải liền đem câu nói này báo cáo với Viên Thế Khải, Viên Thế Khải nghe rồi rất tức giận, liền cho bắt ông lại, nhốt vào trong lao ngục hơn một tháng. Thực tế ông không có tội gì hết, chỉ là không chịu mắng ông ấy.

Trong một tháng ngồi trong lao ngục, ông lại xuất hiện một kỳ tích, Đông Nhạc Đại Đế mời ông đi làm phán quan (Đông Nhạc Đại Đế thấp hơn một bậc so với vua Diêm La, Vua Diêm La cũng giống như tổng thống của một nước vậy, vị Đông Nhạc này chúng ta gọi là Ngũ Nhạc. Đông Nhạc Đại Đế cũng là một đại quỷ vương, quản rất nhiều tỉnh). Địa vị phán quan tương đối cao, cũng giống như tổng thư ký. Buổi tối thì ông đến nơi đó làm việc. Ông nói, khi sắp hoàng hôn thì có hai quỷ nhỏ mang kiệu đến mời ông lên kiệu, rồi khiêng kiệu đến nơi làm việc, đến sáng sớm ngày hôm sau, khi trời sáng thì đưa ông trở về. Sau khi ra khỏi nhà giam, ông vẫn còn làm phán quan, đã làm một thời gian tương đối dài. Ông có cơ hội thấy được tình hình ở trong Âm Tào Địa Phủ. Có lúc bạn bè nói chuyện với nhau, ông đem việc mà buổi tối ông đi làm, nói ra cho mọi người nghe. Đó là thật! Ở âm gian, tuy là chủng tộc không như nhau, quốc gia không như nhau, tiếng nói không như nhau, nhưng dường như khi ở Âm Tào lời nói đều thông, đôi bên nói chuyện đều không có chướng ngại, đều có thể hiểu nhau, đó là một hiện tượng kỳ diệu. Ăn uống, đi đứng của họ cũng gần giống như thế gian này vậy, chỉ là không thấy được thái dương, nên ngày của họ là vĩnh viễn tối đen. Cõi ngạ quỷ là vĩnh viễn tối đen, không có ánh sáng mặt trời, mãi mãi là tối đen, tối âm u.

Có một lần, ông nghĩ đến trong địa ngục này có một loại hình phạt gọi là pháo lạc, chính là đem một cây cột đồng đốt lên đỏ rực, bắt người thọ hình phải ôm lấy. Ông Chương Thái Viêm là một người học Phật, một Phật tử thuần thành, ông nói loại hình phạt này quá tàn khốc, nên yêu cầu Đông Nhạc Đại Đế bỏ đi. Ông nói: “Ngài có thể bỏ đi không? Nếu Ngài bỏ đi, chẳng phải Ngài đã làm được một việc thật tốt, có đại công đức rồi sao?”. Đông Nhạc Đại Đế nghe xong rồi nói: “Ông có thể đi xem qua trước hình trường” và liền phái ra hai tiểu quỷ dẫn ông đi đến hiện trường. Vị tiểu quỷ này dẫn ông đi qua rất nhiều con đường, đến nơi hiện trường, tiểu quỷ đứng yên bất động và nói: “Đến rồi! Mời phán quan Ngài đến xem”. Thế nhưng ông không hề thấy, thế là bỗng nhiên hiểu ra, mới biết được ở trong Kinh Phật nói địa ngục là do nghiệp lực biến hiện ra, không phải do vua Diêm La thiết lập. Do nghiệp lực biến hiện, bạn không có nghiệp lực này, dù có ở ngay trước mặt bạn cũng không thấy được. Dường như câu chuyện này, lão cư sĩ Chu ở cuối đời đã viết lại trong trước tác của ông. Đây đều là việc chân thật. Bạn không có tạo ra nghiệp này thì không thể nhìn thấy được. Trên Kinh Địa Tạng nói, địa ngục chỉ có hai người có thể thấy được, có thể đi đến được. Một chính là người tạo tác ra nghiệp địa ngục, người chịu hình phạt thì mới nhìn thấy. Ngoài ra một người nữa là Bồ Tát, Bồ Tát vào trong đó giáo hóa chúng sanh. Nếu như bạn không phải thuộc hai người này thì cảnh giới địa ngục ở ngay trước mặt cũng nhìn không thấy. Cho nên về sau cư sĩ Chương Thái Viêm không nói nữa, mới biết được việc này không phải do sức người làm ra, mà là do nghiệp lực của chính họ biến hiện ra cảnh giới này, họ đến thọ tội. Thực tế mà nói, những phán quan, tiểu quỷ, ngưu đầu, mã diện chấp pháp trong địa ngục cũng là nghiệp lực chính mình biến hiện, bạn có thể trách ai? Đích thực là tự làm tự chịu.

Cho nên, chúng ta tạo tác ba nghiệp nhất định phải cẩn trọng, quá khứ đã tạo ra tội nghiệp thì phải mau hồi đầu. Hồi đầu thì được cứu, không nên sợ quá khứ đã tạo ra tội nghiệp rất nặng, sợ tương lai chịu báo. Nếu bạn thật có cái tâm lo sợ này thì bạn được cứu rồi, còn nếu như bạn vẫn cứ mờ mịt không biết, vậy thì bạn hết cứu. Vì sao biết ta có cái tâm lo sợ, có cái tâm e ngại, có cái tâm hối cải thì được cứu không? Xưa nay thí dụ này rất nhiều, hiện rõ ra từ bi của nhà Phật, chân thật gọi là đại từ đại bi, quay đầu là bờ, chỉ sợ bạn không quay đầu, vừa quay đầu thì liền được cứu. Chúng ta xem thấy ở trong “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”, vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ ruột, đoạt lấy ngôi vua, cùng với Đề Bà Đạt Đa liên kết lại phá hoại Tăng đoàn, tội ngũ nghịch đều đã tạo ra. Giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu, họ đều làm. Tội nghiệp đó nhất định đọa vào địa ngục A Tỳ. Thế là Phật ở trong “A Xà Thế Vương Kinh” nói với chúng ta, khi ông lâm chung sám hối, chân thật hối cải, biết được việc làm cả đời của ông đã tạo là sai, đặc biệt sai, ông dùng tâm sám hối này niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, cho nên ông được vãng sanh. Cả đời ông tạo ra tội nghiệp nặng như vậy mà còn có thể vãng sanh. Trong suy nghĩ của ta, ông vãng sanh đại khái chỉ vãng sanh hạ hạ phẩm, nhưng ở trên Kinh Phật nói với chúng ta, phẩm vị vãng sanh của ông là thượng phẩm trung sanh. Như vậy chúng ta mới hiểu rõ, vãng sanh là có hai phương thức, một là bình thường tích lũy công đức, thành thật niệm Phật vãng sanh, hai là lâm chung sám hối vãng sanh. Sám hối vãng sanh, phẩm vị của bạn thế nào thì hoàn toàn xem ở tâm sám hối của bạn, xem ở lực sám hối của bạn.

Một người tạo ra tội nghiệp cực trọng, đến lúc lâm chung chân thật sám hối còn có thể vãng sanh, còn có thể được độ, đây là đạo lý gì vậy? Thực tế mà nói, đạo lý là một, không phải là hai, “vạn pháp do tâm”, chính là Hoa Nghiêm đã nói “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, xem cách chuyển tâm niệm của bạn như thế nào. Bạn phải chuyển được nhanh, bạn phải thật chuyển lại được. Đây là một thí dụ tạo tội ngũ nghịch mà được thượng phẩm trung sanh, chúng ta xem thấy được ở trên Kinh.

Ngoài ra còn có một thí dụ rất rõ ràng, pháp sư Oánh Kha vào triều nhà Tống (việc này ở trong Vãng Sanh Truyện, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đều có). Ông là một người xuất gia, phá giới, không giữ thanh quy, đại khái giới luật thanh quy ông thảy đều phạm hết. Thế nhưng ông có một chỗ rất tốt, ông biết được chính mình đã tạo ra tội nghiệp, chính điểm này đã cứu ông. Ông biết được tương lai ông nhất định sẽ đọa địa ngục, nghĩ đến những sự khủng khiếp trong địa ngục nên ông lo sợ, liền thỉnh giáo với các bạn đạo đồng tu của ông có cách gì có thể cứu ông không, có cách nào làm cho ông không đọa vào địa ngục không? Có một bạn đồng tu liền lấy cuốn Vãng Sanh Truyện đưa cho ông xem. Sau khi ông đọc rồi rất là cảm động, liền hạ quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Việc này trong truyện ký ghi chép, ông đóng kín phòng của ông lại, niệm một câu A Di Đà Phật đến cùng, ông không hề ngủ, không ăn thứ gì, niệm ba ngày, ba đêm thì niệm ra được Phật A Di Đà. Phật A Di Đà nói với ông: “Ông còn có mười năm dương thọ, trong mười năm này ông cố gắng tu hành, khi đến lúc lâm chung, ta sẽ trở lại tiếp dẫn ông”. Có cảm ứng như vậy! Chân thật là chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng, xem tâm chân thành của bạn, tâm chân thành thì niệm ra được Phật. Pháp sư Oánh Kha liền nói với Phật A Di Đà: “Tập khí của con quá nặng, không thoát khỏi mê hoặc, cho nên mười năm nữa không biết con sẽ phạm phải bao nhiêu tội. Tuổi thọ mười năm con không cần nữa, bây giờ con đi liền với Ngài”. A Di Đà Phật liền đồng ý, Ngài nói: “Được! Ba ngày sau ta đến tiếp dẫn ông”. Oánh Kha rất là vui mừng: “Tốt quá! Ba ngày sau Phật đến tiếp con, con theo Ngài vãng sanh”. Ngài liền mở cửa ra, hân hoan vui mừng nói với mọi người trong chùa: “Ba ngày sau tôi sẽ vãng sanh”. Người trong chùa đều cho là thần kinh của ông không bình thường, một người ác đến như vậy, ba ngày sau thì làm gì có thể vãng sanh? May mà thời gian ba ngày không dài, mọi người náo nhiệt, thử xem ba ngày sau ông có vãng sanh được không! Khi đến sáng sớm ngày thứ ba, ông tắm qua thân thể, thay bộ quần áo mới, xin các đồng tu thời khóa sáng nay chúng ta thảy đều niệm A Di Đà Phật đưa ông vãng sanh; nội dung khóa tụng thì thay đổi một chút, đọc Kinh A Di Đà, niệm Phật hiệu, đưa ông vãng sanh. Khi Phật hiệu niệm được đại khái thời gian chỉ có một giờ đồng hồ, thời gian không dài lắm, ông liền nói với mọi người: “Phật A Di Đà đến rồi (ông nhìn thấy được, người khác thì không nhìn thấy), tôi đi với Phật A Di Đà đây. Cáo biệt mọi người!”. Nói rồi ông liền đi. Ông thật được vãng sanh rồi, không hề có bệnh. Cách biểu diễn của ông nói với chúng ta một việc, trên Kinh Di Đà đã nói: “Nếu một ngày, nếu hai ngày, cho đến bảy ngày…” không hề sai. Bình thường có làm việc xấu, một câu Phật cũng không niệm, vậy mà niệm Phật chỉ ba ngày thì có thể vãng sanh. Đây không phải là giả, là thật đấy!

Ngày nay chúng ta đóng cửa phòng lại, niệm ba mươi ngày cũng không thể vãng sanh, đây là do nguyên nhân gì? Tâm của bạn là giả, không phải là thật, bạn không phải dùng tâm chân thật, trong mỗi câu Phật hiệu còn có vọng tưởng xen tạp ở trong đó. Bạn không biết địa ngục là đáng sợ, Oánh Kha biết được địa ngục là đáng sợ, không vãng sanh thì phải đọa địa ngục, thật đáng sợ. Ông chỉ có hai con đường, không có cách chọn lựa khác. Ông sợ chịu khổ địa ngục, nên toàn tâm toàn lực chuyên chú một ý niệm cầu vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Việc này nói rõ, cho dù đời trước đã tạo tội nghiệp, hoặc giả ngay trong đời này tạo tội nghiệp cũng không sợ, chỉ cần chân thật đầy đủ ba điều kiện tín-nguyện-hạnh này, ngay cả chúng sanh địa ngục cũng có thể ở ngay trong một đời thành Phật, làm Tổ. Pháp môn không thể nghĩ bàn!

Chúng ta mở miệng ra, vì sao không niệm Phật? Tại vì sao phải nói chuyện phiếm? Cho nên mọi người phải biết, bạn không niệm Phật, bạn liền tạo khẩu nghiệp, thì bạn phải chịu khổ báo ở ba đường. Một ngày từ sớm đến tối tiếp xúc với người, người này thì tốt, người kia thì xấu, đều là nói thị phi nhân ngã. Bạn học Phật, đọc Kinh, bái Phật, lễ Phật, tu một chút công đức đó đều bị rơi mất từ nơi cửa miệng của bạn, những gì bạn tích lũy lại đều là tội nghiệp, vô lượng vô biên tội nghiệp. Bạn phải giác ngộ, bạn phải thông hiểu, phải mau hồi đầu. Cái miệng này ngày ngày niệm A Di Đà Phật chính là xưng tán Như Lai. Trong lòng nhớ Phật, miệng niệm Phật, không xen tạp, không gián đoạn, được vô lượng vô biên công đức mà bạn không làm, lại đi tạo tội nghiệp, vậy thì không còn cách nào.

Đó là ý nghĩa của xưng tán Như Lai.

Trích trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 11-12

Bài viết cùng chuyên mục

Nếu thấy A Di Đà Phật đến thọ ký, hãy xin vãng sanh ngay về Cực lạc

Định Tuệ

10 công đức lạy Phật, dễ dàng thực hành mỗi ngày tại nhà

Định Tuệ

Thiên Ma phá hoại định lực của người tu

Định Tuệ

Cách thức quy y và phát nguyện với Địa Tạng Bồ Tát

Định Tuệ

Phật và Ma chỉ khác nhau nơi một tâm niệm

Định Tuệ

Thần chú Lăng Nghiêm là gì? Thần chú uy lực nhất trong Phật giáo

Định Tuệ

Người xuất gia, tại gia khéo biết dụng tâm thì phiền não tức bồ đề

Định Tuệ

Tam khổ là gì? Cái gì làm cho ta đau khổ nhiều nhất?

Định Tuệ

Bố thí tài không bằng bố thí Pháp

Định Tuệ

Viết Bình Luận