Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

33 Ứng hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát

Mời quý vị, quý Phật tử cùng chiêm ngưỡng 33 ứng hóa thân (pháp tướng) Bồ Tát Quán Thế Âm. Đồng khởi nguyện từ bi cầu cho mọi người được an lạc, thế giới được hòa bình, đặng cùng thành đạo.

Quán Thế Âm Bồ Tát, một vị đại sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở Ta Bà mà bất cứ đệ tử nào của đức Phật cũng đều hướng tâm kính lễ, và cầu nguyện Ngài.

Trong Diệu pháp liên hoa kinh, đức Phật Thích ca đã giải thích rõ cho Vô Tận Ý Bồ Tát về ý nghĩa của danh hiệu Quán Thế Âm là do vị Bồ tát này khi nghe âm thanh của chúng sanh xưng danh hiệu mình thì bèn tầm thanh để cứu khổ. Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị các khổ não nghe đến danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, một lòng xưng danh Ngài thì ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm bèn xem xét âm thanh ấy, khiến cho họ đều được giải thoát.

Cũng theo kinh này thì có 32 hóa thân khác của Quán Thế Âm Bồ Tát là thân Phật, Bích Chi, Thanh Văn, Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn, Tiểu Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la–môn, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Phụ nữ, Đồng nam, Đồng nữ, Thiên , Long, Dạ xoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân, Thần chấp Kim Cang.

Sau này lại có thêm 33 hóa thân khác của Quán Thế Âm Bồ Tát, những hóa thân này không dựa vào Kinh sách mà chỉ dựa vào tư tưởng hóa độ lục đạo kết hợp với 33 Ứng hóa thân trên pha trộn với tín ngưỡng dân gian của Nhật Bản và Trung Hoa mà tạo thành, đó là các hồng danh.

1. Dương Liễu Quán Âm: còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, bổn nguyện của Ngài là bạt trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh, vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm cành dương. Dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.

2. Long Đầu Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên lưng rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát; Long Vương đến mang mây mưa sấm chớp chiếu diệu khắp trời đất, thấm nhuần muôn vật, tất cả đều tán thán uy lực của Long vương. Ngài hiện thân ngồi kết già trên mình rồng thuyết pháp cho chúng sanh.

3. Trì Kinh Quan Âm: An tọa trên tảng đá ghồ ghề, tay phải cầm quyển Kinh, tay trái để trên đầu gối. Được cho là tương ứng với thân Thanh Văn Quan Âm trong 32 ứng thân Quan Âm, Thanh Văn (Sravaka) là nghe âm tiếng do Đức Phật dạy bảo mà khai ngộ xuất gia. Trong Phẩm Phổ Môn nói: “Cần phải dùng thân Thanh Văn để hóa độ liền hiện thân Thanh Văn mà giảng pháp”. Bàn tay phải cầm quyển Kinh là Pháp tướng đặc trưng của Ngài.

4. Viên Quang Quan Âm: Trong ánh sáng lửa rực của hào quang chiếu khắp Pháp giới xuất hiện Sắc thân Quan Âm, hai tay chắp lại, an tọa trên mỏm núi đá. Trong Phẩm Phổ Môn có một đoạn Kinh văn nói:

Sáng thanh tịnh không nhơ
Mặt trời tuệ trừ ám
Hay trừ nạn gió lửa
Soi sáng khắp thế gian.

5. Du Hý Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng, Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh.

6. Bạch Y Quan Âm: Ngài khoác y áo mềm mại sắc trắng thanh tịnh, kiết già tĩnh tọa trên đám cỏ nơi tảng đá, tay kết ấn thiền định. Hình tượng này tương đương với thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni trong 32 ứng thân Quan Âm.

7. Liên Ngọa Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện tọa ngọa trên lá sen. Ngài hiện thân Tiểu Vương trong phẩm Phổ Môn, để thí dụ cho thân Tiểu Vương tôn quý ngồi trên lá sen. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh.

8. Long Kiến Quan Âm: Còn gọi là Phi Bộc Quan Âm, tư thế dựa vào vách núi gãy, quán thác nước đổ. Cũng có ý kiến cho rằng Tôn này tượng trưng cho ý nghĩa của đoạn văn trong Phẩm Phổ Môn: “Nếu có chúng sinh nào bị xô vào hầm lửa lớn, xưng niệm tên Quan Âm, Bồ tát liền ứng theo âm thanh đó mà cứu, khiến cho thành lửa biến thành ao”.

9. Thí Dược Quán Âm: ngoài việc trị bệnh khổ của chúng sanh về thân và tâm, Quán Thế Âm Bồ tát còn ban bố cho chúng sanh lương dược. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ.

10. Ngư Lam Quan Âm: Chuyên trừ bỏ chướng ngại của La Sát, Rồng độc, Quỷ ác… Pháp tướng ấy cưỡi con cá lớn, hoặc là tay xách giỏ có con cá lớn. Có ý kiến cho rằng Tôn này tượng trưng cho đoạn Kinh văn sau trong Phẩm Phổ Môn:

Hoặc gặp La Sát dữ
Rồng độc, các loài Quỷ
Do niệm sức Quan Âm
Chúng đều không dám hại

11. Đức Vương Quán Âm: trong phẩm Phổ Môn chép rằng: “người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ cõi trời sắc giới, công đức rất lớn, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng thông thường trong nhân gian là đầu đội bảo quan, ngồi kết già, tay phải cầm nhánh lá, tay trái để trên đầu gối.

12. Thủy Nguyệt Quan Âm: Đứng trên một cánh Sen tựa như chiếc thuyền dưới ánh trăng, nổi trên biển quán tưởng mặt trăng trong nước yên tĩnh. Tôn này tương đương với Hóa thân Bích Chi Phật của Bồ tát Quan Âm.

13. Nhất Diệp Quan Âm: Ngự trên cánh sen, nhàn nhã trôi trên mặt nước, còn được gọi là Liên Diệp Quan Âm, Nam Minh Quan Âm. Tương truyền có một Tăng nhân người Nhật tên là Đạo Nguyên trên đường trở về Nhật Bản gặp phải gió lớn đành tránh vào núi Nam Minh, lúc ấy Đạo Nguyên ở trên thuyền khấn thầm bỗng nhiên thấy Đại Bi Tôn ngự một cánh sen nổi trên biển, tức thời sóng gió liền lặng. Lên bờ xong, Sư tự khắc tượng Quan Âm đã nhìn thấy và an trí phụng thờ trong chùa Nam Minh Quan Âm. Từ đây Tôn này có hiệu là “Nam Minh Quan Âm”.

Y theo trong tác phẩm Phật Tượng Đồ Hối đã vẽ thì hình tượng Tôn này an tọa trên cánh sen, gối trái co đứng, tay trái để trên đầu gối, tay phải rũ xuống chống đỡ thân ấy, trông nhìn xa trên mặt nước, tác tướng suy tư sâu xa.

14. Thanh Cảnh Quán Âm: có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.

15. Uy Đức Quan Âm: Tay phải chạm đất, tay trái cầm hoa sen, tư thế đứng ở trên mỏm núi quán nhìn nước. Có ý kiến cho rằng đây là thân Thiên Đại Tướng Quân trong 32 ứng thân Quan Âm. Vì Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ cả uy đức, cho nên có tên là Uy Đức Quan Âm. Quan Âm có đủ cả Uy của điều phục và Đức của nhiếp Pháp để yêu thương hộ trì chúng sinh.

16. Diên Mạng Quán Âm: là Quán Thế Âm Bồ tát bảo hộ thọ mạng chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Có thể tiêu trừ chú thuật nguyền rủa và độc dược thêm tuổi thọ, cho nên gọi là Diên Mạng Quán Âm. Ngài đội bảo quan, mặc Thiên y, anh lạc trang nghiêm, 20 cánh tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh.

17. Chúng Bảo Quán Âm: Tay phải chạm đất, chân phải duỗi thẳng, tay trái để ở trên đầu gối, hiện tướng an bình. Tôn này tương đương với thân Trưởng Giả trong 32 ứng thân Quan Âm. Có ý kiến cho rằng Tôn này tượng trưng cho đoạn văn sau trong Phẩm Phổ Môn: “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh vì cầu vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, các thứ trân châu báu vật vào trong biển lớn. Giả sử chiếc thuyền ấy bị gió lớn thổi tấp vào nước Quỷ La Sát, nếu trong đó có một người xưng tụng danh hiệu Quan Âm Bồ tát thì các người kia đều được giải thoát nạn Quỷ La Sát”.

18. Nham Hộ Quán Âm: là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trong hang đá. phẩm Phổ môn chép: “Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”. Thường trong hang động có nhiều chướng khí và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Quán Thế Âm Bồ tát hiệp chưởng tĩnh tọa trên hoa sen, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng.

19. Năng Tĩnh Quán Âm: Đứng lặng hồi lâu trên mỏm núi bên cạnh biển, tác tướng yên tịnh, hoặc có người cho rằng Tôn này tượng trưng cho đoạn văn sau trong Phẩm Phổ Môn: “Giả sử chiếc thuyền bị gió lớn thổi tấp vào nước Quỷ La Sát, nếu trong đó có một người xưng tụng danh hiệu Quan Âm Bồ tát thì các người kia đều được giải thoát nạn Quỷ La Sát”.

20. A Nậu Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên bệ đá quán sát mọi động tĩnh của đại hải. Thệ nguyện của Ngài như bài kệ:“ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh không còn tai ương.

21. A Ma Đề Quán Âm: Tức là Vô Úy Quan Âm. Trong Pháp tướng này, Đức Quan Âm thường có sắc thân trắng, ba mắt và bốn tay, cưỡi Sư tử trắng, toàn thân tràn đầy lửa rực, vận thiên y, anh lạc… nêu biểu cho sự trang nghiêm; diện mạo từ bi, chăm chú nhìn về bên trái. Có người cho rằng Tôn này tương đương với Hóa thân Tỳ Sa Môn của Bồ tát Quan Âm.

22. Diệp Y Quán Âm: Ngài hiện thân Thiên nữ, đội bảo quan, trên bảo quan có hóa thân Vô Lượng Thọ Phật. Quanh thân có vòng lửa, ánh sáng trong suốt khắp thân. Có bốn tay, hai tay bên phải, một tay cầm quả cát tường để trước ngực, một tay kết thí nguyện ấn; hai tay bên trái, một tay cầm rìu, một tay cầm sợi dây, ngồi trên hoa sen. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.

23. Lưu Ly Quán Âm: Biệt danh là Cao Vương Quan Âm. Ngự nơi một cánh Sen nổi trên mặt nước, hai tay nâng chiếc bình Lưu ly. Có người cho rằng Tôn này tương đương với Hóa thân Tự Tại Thiên của Bồ tát Quan Âm.

24. Đa La Quán Âm: dùng vật báu vô giá trang nghiêm thân để trừ khổ não cho chúng sanh, tất cả chúng sanh vui ưa vào pháp giới chư Phật. Ngài hiện thân người con gái, tướng mạo từ bi, mặc y trắng, hai tay hiệp chưởng cầm hoa sen xanh; quanh thân có hào quang thanh tịnh, đầu búi tóc. Trước ngực đeo anh lạc ngồi trên bệ đá ngắm nhìn chúng sanh.

25. Cáp Lợi Quán Âm: Có nghĩa là Bồ tát ngồi trong con sò. Tín ngưỡng này bắt nguồn từ triều đại nhà Đường (Trung Quốc) trở về sau. Quyển 42, Phật Tổ Thống Ký trong đời Đường Văn Tông năm Khai Thành Nguyên ghi chép rằng: “Khi vua Đường Văn Tông ăn con sò, dùng tay tách mà không mở được, nên đốt hương khấn cầu, bỗng nhiên con sò biến hiện thành hình tượng Bồ tát. Hoàng đế liền viết chiếu thư cho Chung Nam Sơn Duy Chính Thiền Sư hỏi nguyên nhân việc này và sau đó chiếu cáo cho chùa chiền trong thiên hạ lập tượng Quan Âm”. Tín ngưỡng Cáp Lợi Quan Âm vì thế rất phổ biến với những ngư dân.

26. Lục Thời Quán Âm: là vị Bồ tát ngày đêm từ bi thủ hộ chúng sanh. Thời xưa miền Bắc Ấn Độ một ngày đêm chia làm sáu thời, một năm cũng chia làm sáu thời là: “nắng ít, nắng nhiều, mưa, mát, lạnh ít, lạnh nhiều”; Do đó mà nói thành “Quán Thế Âm thường trông chúng sanh”.

27. Phổ Bi Quán Âm: Tay cầm Pháp Y rủ xuống trước, đứng trên núi cao nêu biểu lòng từ bi của Đức Quan Âm rộng khắp ba ngàn Đại thiên Thế giới, thương xót phổ độ hết thảy chúng sinh. Có người cho rằng Tôn này tương đương với Hóa thân Đại Tự Tại Thiên của Bồ tát Quan Âm. Đại Tự Tại Thiên chính là vị thần tối cao của ba cõi, dùng uy đức thù thắng ấy chiếu khắp tất cả, mà phối hợp với từ bi phổ biến bình đẳng của Quan Âm cho nên gọi là Phổ Bi Quan Âm.

28. Mã Lang Phụ Quán Âm: Đời Đường có một mỹ nữ mà những người con trai đều tranh nhau cưới, nàng nói trong một đêm nếu đọc thuộc được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng, đêm ấy có hai mươi người thuộc, lại một đêm tụng trọn bộ kinh Kim Cang cũng sẽ lấy làm chồng, đêm ấy còn lại mười người, sau ba ngày có thể tụng thuộc Kinh Pháp Hoa thì sẽ kết ước. Trong số đó chỉ có người thanh niên họ Mã được chọn. Ngày kết hôn người con gái bỗng dưng chết biến thành ánh sáng bay lên không trung biến mất. Hình tượng Ngài cầm quyển Kinh Pháp Hoa và cây gậy có hình đầu lâu.

29. Hợp Chưởng Quán Âm: Đứng trên đài sen, hai tay chắp trước ngực, hai bàn tay chấp lại ở giữa rỗng cho nên có tên gọi như vậy. Có ý kiến cho rằng Tôn này tương đương với Hóa thân Bà La Môn của Bồ tát Quan Âm.

30. Nhất Như Quán Âm: Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ Môn chép: “mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.

31. Bất Nhị Quan Âm: Pháp tướng này có hai tay bắt chéo nhau, đứng trên một chiếc lá sen nổi trên mặt nước. Có ý kiến cho rằng Tôn này tương đương với Hóa thân Thần Chấp Kim Cương của Bồ tát Quan Âm. Thần Chấp Kim Cương là vị thần thủ hộ của Đức Phật.

32. Trì Liên Quán Âm: Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa để biểu trưng cho bổn thệ, vì cầm hoa sen đã nở hay chưa nở nên còn gọi là liên hoa thủ. Vì hoa sen có nhiều nhơn duyên đặc thù nên cũng lấy hoa sen làm đài. Hình tượng Quán Âm đứng trên lá sen, hai tay cầm hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm.

33. Sái Thủy Quán Âm: Tay phải cầm Sái Trượng hoặc cành dương liễu, tay trái cầm bình, tác tướng tưới nước Cam lộ. Có ý kiến cho rằng Tôn này tượng trưng cho câu văn sau trong Phẩm Phổ Môn: “Nếu có người bị nước lớn cuốn trôi, hễ xưng niệm danh hiệu Ngài liền gặp chỗ cạn”. Hoặc có một thuyết cho rằng Tôn này tượng trưng cho đoạn văn:

Lòng Bi như sấm chớp.
Ý lành diệu tựa mây
Tuôn mưa nước Cam lộ
Dứt trừ lửa phiền não.

Nguồn: Phatgiao.org.vn!

Bài viết cùng chuyên mục

Phật pháp thù thắng khôn sánh

Định Tuệ

Tại sao truyền bá Phật Pháp thì được công đức vô lượng?

Định Tuệ

Tam quy ngũ giới là gì? Lợi ích thiết thực của Tam quy ngũ giới

Định Tuệ

Phật là gì, Pháp là gì, Tăng là gì?

Định Tuệ

Vì sao người mới mất không nên đụng chạm vào thân họ?

Định Tuệ

Thiếu nợ thì nhất định phải trả

Định Tuệ

Nếu thọ Tam Quy Y và Ngũ giới có thể đạt thành tựu Phật Đạo

Định Tuệ

Phương pháp bậc nhất của hết thảy chư Phật phổ độ chúng sanh là trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ

Định Tuệ

Bát nạn là gì? Lời Phật dạy về bát nạn

Định Tuệ

Viết Bình Luận