Nếu có thể thuận theo tin, đào gốc nghi, thời hạng người nghiệp chướng nặng nề trước kia, kẻ điếc liền hết điếc mà được nghe, người mê liền tỏ ngộ mà được biết chưa ra khỏi sanh tử sẽ được ra khỏi, chưa sanh Tịnh Độ tất được vãng sanh.
Ông Trần Quyền tự Vĩnh Trung, người Nam Kiếm Châu. Triều vua Huy Tông nhà Tống, ông ở chức Tả Tư Gián, vì lời ngay trái tai mà phải bổ làm quan ở tỉnh ngoài.
Ông Quyền vốn thích Kinh Hoa Nghiêm, tự hiệu là Hoa Nghiêm cư sĩ. Khi được gặp Minh Trí Pháp sư, ông hạch hỏi tông chỉ Thiên Thai.
Minh Trí Pháp sư đem môn chỉ quán bất tư nghị cảnh, dùng tánh đoạt tu thành vô tác hạnh mà giảng giải cho. Ông Quyền liền thâm nhập. Từ đó ông bỏ hẳn văn chương chuyên tu niệm Phật Tam muội. Ông từng viết bài tựa bộ Tịnh Độ Thập Nghi Luận của Trí Giả Đại sư:
“Tâm người vô thường, pháp cũng vô định. Tâm và pháp muôn vàn sai khác chính bởi tại đây. Tin đây thời tin khắp cả, nên Hoa Nghiêm nói Thập tín. Nghi đây thời nghi tất cả. Tổ Trí Giả vì thế mà giảng Thập nghi. Ra khỏi lưới nghi mà vào trọn nơi tín, thời chẳng rời chỗ này liền đặng cứu cánh. Tịnh Độ là nơi cứu cánh đấy. Nơi ấy có Đức Giáo Chủ hiện đương thuyết pháp hiệu Vô Lượng Thọ Phật. Đức Phật ấy thuyết pháp chưa từng gián đoạn. Vì nghi làm chướng tai mình nên tự điếc mà không nghe. Vì nghi lấy tâm mình nên tự mê muội mà không hay biết. Vì không nghe không biết nên chấp cứng thói quen ô trược, rồi vọng cho thác chất hoa sen là dối bịa, mà trọn không chịu tự xét tấm thân máu thịt hiện tại đây từ đâu mà có? Từ đâu mà đến?
Tất cả từ nơi thai ngục. Thai ngục uế trược ấy có chút gì là chơn thật! Do vì dựa theo nghiệp thức nên tự cách bản chơn, ở trong một huyễn cảnh mà lại chấp đây chê kia, đời đời say mê, tuyệt hẳn Thánh lộ.
Vì thế nên Đức Bổn Sư Thích Ca Như Lai sanh lòng từ mẫn, đứng giữa cõi trược uế lên tiếng to kêu gọi: Tán thán sự thanh tịnh an vui của cõi Tịnh Độ. Ngài là vị đại Đạo sư ở bến sanh tử dùng pháp thuyền chở chúng sanh qua đến bờ Tịnh Độ. Nhưng bờ thanh tịnh của Đức Từ Phụ A Di Đà vốn không phân bỉ thử, thuyền Chánh pháp của Bổn Sư Thích Ca thiệt chẳng có lại qua.
Ví như lồng đèn tám mặt, một ngọn đèn mà chia chiếu tám phương, mặt gương có Đông và Tây, mà ánh sáng vẫn là một. Đức A Di Đà thuyết pháp vốn khắp trong ánh sáng, vì muốn có chỗ chuyên chủ nên Đức Thích Ca chỉ một mặt Tây.
Cho nên người đã được đến bờ Tịnh Độ mới có thể bặt dứt bỉ thử, kẻ chưa nhập pháp giới làm gì quên được Đông Tây! Đối với pháp môn này nếu là người chưa đạt đến chỗ cứu cánh thời chớ có sanh lòng nê chấp, cũng đừng phân tích kia đây, chỉ nên chánh niệm tin chắc mà thôi. Đây chính là thâm ý của hai Đức Giáo Chủ, mà cũng là chỗ quyết tin của Tổ Trí Giả vậy.
Tin là mẹ của tất cả pháp lành, còn nghi là gốc của muôn vàn ác nghiệp. Nếu có thể thuận theo tin, đào gốc nghi, thời hạng người nghiệp chướng nặng nề trước kia, kẻ điếc liền hết điếc mà được nghe, người mê liền tỏ ngộ mà được biết chưa ra khỏi sanh tử sẽ được ra khỏi, chưa sanh Tịnh Độ tất được vãng sanh. Thuận theo lời Đức Bổn Sư, mà đến ra mắt Đức Từ Phụ rồi thể theo chí nguyện của Từ Phụ mà trở lại phụ trợ Bổn Sư không rời Cực Lạc mà khắp đến mười phương ngồi an trên liên đài mà phân thân pháp giới.
Từ khi hai Đức Giáo Chủ lập pháp đến nay, những người đã được như thế nhiều như số cát sông Hằng, còn gì mà chẳng chịu tin, còn gì mà cứ nghi ngờ. Mình đã tin nên tìm phương chước dìu dắt mọi người cùng tin, đây chính là lòng bi mẫn của Tổ Trí Giả vậy”.
Về sau ông đến cất nhà ở Lô Sơn. Một hôm ông bảo người nhà rằng: “Năm trước mắc nhiều hoạn nạn, tôi chỉ sợ sự chết làm gián đoạn công phu hành đạo. Đến nay thời vòng sống chết tôi đã được ra khỏi”. Dứt lời, ông Quyền đoan tọa an vui mà mất, thọ 65 tuổi.
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch – Trích ở những bộ Đông Đô Sự Lược
Phật Tổ Thống Kỷ, Lý Trung Định Tập