Kinh Kim Quang Minh sâu xa vô lượng, hư không còn chẳng cao rộng bằng, thì dùng trọng lượng của Tu-di và số lượng giọt nước biển lớn có thể sánh biết giới hạn sao?
Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương hay được viết tắt là Kinh Kim Quang Minh (Ánh Sáng Hoàng Kim) là một kinh điển Phật giáo của phái Bắc Tông. Kim Quang Minh Kinh là bộ kinh phổ biến và được mệnh danh là bản kinh Hộ Quốc ở các nước Phật giáo theo truyền thống Đại Thừa như Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam và đặc biệt là Nhật Bản.
Giới thiệu về Kinh Kim Quang Minh
Toàn bộ Phật giáo, bất kể nguyên thỉ, bộ phái hay đại thừa, đều rất trọng cái thân loài người. Nói tu theo Phật giáo là nói do cái thân người và do ý thức nơi thân ấy. Kinh này, trước hết, cũng là như vậy.
Không cần lặp lại, Phật tử thì ai cũng biết thân người dễ tu chứng, nhân loại là nơi Phật thị hiện thân Phật. Vì ở đây không quá khổ quá sướng, ở đây tư duy và hành động sắc bén, quả cảm. Nhưng kinh này còn nói rõ chính nơi cái thân ngũ uẩn mà phát hiện pháp thân và thực hiện pháp thân ấy.
Rõ ràng hơn nữa, kinh này nói “thân này thì bản thân, yếu tố, đối cảnh, đối tượng, kết quả, tất cả toàn là dựa vào chân như, và nó thật khó mà nghĩ bàn. Thân này là cỗ xe vĩ đại, là thể tánh Như lai, là bào thai Như lai” (phẩm 3). Câu đầu đoạn văn này phải giải thích. Bản thân thì thân này là thắng thân (cái thân đặc thù, hơn hết), làm cái dụng cụ chứa đựng Phật pháp. Yếu tố là thắng thiện (điều thiện đặc thù, hơn hết) đời trước làm nhân tố có ra thân này. Đối cảnh là trí tuệ và phước đức mà thân này vin lấy. Đối tượng là đối tượng tối thượng và tối hậu mà thân này nhắm đến, hoạt động theo, đó là đại bồ đề. Kết quả là sự đại giải thoát hội nhập chân như. Bản thân là dị thục quả, yếu tố là tăng thượng quả, đối cảnh là đẳng lưu quả, đối tượng là sĩ dụng quả, kết quả là ly hệ quả. Trọn vẹn kinh này, hay bất cứ kinh nào, nằm gọn như vậy trong cái thân này.
Dựa vào thân ấy mà kinh này nói về diệu pháp sám hối. Sám hối là chủ đề của kinh này. Sám hối là vì một, bản thể là bất diệt và hai, ác nghiệp vốn Không.
Bản thể bất diệt nghĩa là bản thể không sinh diệt, vốn và vẫn trong sáng. Bản thể ấy là chân như. Do vậy mà phải sám hối và có thể sám hối được. Tựa như trăng vốn và vẫn sáng, nên mây mù phải được, và có thể được, xua tan đi.
Bản thể ấy thực hiện là Phật. Nên Phật thì bất diệt, thọ lượng bất tận. Niết bàn chỉ là sự thị hiện vì cần phải thị hiện như vậy. Nhưng Phật bất diệt không phải chỉ là pháp thân bất diệt. Có 2 trường hợp nữa. Một, cái nhân thọ lượng bất diệt (bất sát và dữ thực) Phật rất viên mãn, nên báo thân của Phật là bất diệt. Phật thường ở Linh sơn, kinh Pháp hoa và kinh này đều nói minh bạch như vậy. Hai, Phật ở ngay cạnh ta. Ta không thấy được vì cái thấy của ta thấy sống thấy chết. Cái thấy ấy không thể thấy được cái không sống chết là Phật. Phật là thực tướng hiện tiền. Ác nghiệp diệt trừ thì đương xứ tiện thị, bản lai như thị.
“Thiện nam tử, tất cả các pháp sinh từ yếu tố tương quan; Như lai đã nói sự thể này sinh thì sự thể khác diệt, vì yếu tố khác biệt với nhau, nên sám hối sinh thì nghiệp chướng diệt. Do vậy, ác pháp đã có thì diệt trừ vì sự sám hối, nên nghiệp chướng không còn sót lại; thiện pháp chưa sinh thì phát sinh vì sự sám hối, nên nghiệp chướng không thể sinh nữa. Lý do là vì, thiện nam tử, tất cả các pháp toàn là Không; Như lai đã nói không ngã nhân chúng sinh thọ giả, không sinh không diệt, không cả hành pháp sám hối. Thiện nam tử, tất cả các pháp toàn dựa vào căn bản chân như, nên cũng không thể diễn tả — vì căn bản chân như thì siêu việt tất cả trạng thái sinh diệt. Thiện nam hay thiện nữ nào hội nhập diệu lý như vậy mà kính tin, thì thế là không chúng sinh mà có căn bản — Chính vì ý nghĩa này mà nói đến sự sám hối, diệt trừ nghiệp chướng” (phẩm 5). Chưa kinh luận nào có văn ý đơn giản mà rõ ràng như đoạn văn này, nói về sự sám hối, về Không trong sự sám hối. Cái Không ấy vừa là siêu việt, vừa là biện chứng, lại vừa là tích cực. Cái Không tích cực là “vì Không mà các pháp được thành tựu”, nên kinh này nói 10 địa độ, nói “mãn nguyện vì Không”.” HT Thích Trí Quang!”
Ý nghĩa của Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương
Trong bộ Kim Quang Minh huyền nghĩa, đại sư Thiên Thai Trí Giả ghi:
“Kinh Kim quang minh sâu xa vô lượng, hư không còn chẳng cao rộng bằng, thì dùng trọng lượng của Tu-di và số lượng giọt nước biển lớn có thể sánh biết giới hạn sao? Như ánh sáng mặt trời chói rực, trẻ con không thể nhìn vào; đài cao trên thuyền lớn, người mẹ vừa sinh con đâu đủ sức đảm đương. Hành xứ của chư Phật thanh tịnh hơn cả hạnh tu của Bồ-tát, thì tâm khẩu của Nhị thừa đâu thể nào nghĩ suy, diễn đạt! Còn hàng phàm phu, nếu muốn nói thì sẽ làm tổn thương chân tính; muốn im lặng thì phạm sai lầm. Nói hay im lặng đều không thể. Vì muốn dùng lời để diễn đạt cũng không được, muốn dùng im lặng để tỏ bày cũng không được, cho nên trong kinh Đại Niết-bàn, Phạm chí nói: ‘Vì không thể nội quán cho nên chứng Bồ-đề, vì không thể ngoại quán cho nên chứng Bồ-đề, vì chẳng thể nội ngoại quán cho nên chứng Bồ-đề’. Kinh cho rằng đối với bồ-đề thì chẳng thể dùng tâm suy nghĩ, dùng lời luận bàn. Lại nói: ‘Sinh mà sinh chẳng thể nghĩ bàn, sinh mà bất sinh chẳng thể nghĩ bàn, bất sinh mà sinh chẳng thể nghĩ bàn, bất sinh mà bất sinh chẳng thể nghĩ bàn, nhưng vì có nhân duyên, nên cũng có thể nghĩ bàn’.
Nay kinh này lấy Kim (vàng) làm tên gọi, thì tên gọi đứng đầu trong các kinh; lấy pháp tính làm thể, thì sở nhập của Phật trang nghiêm; lấy công đức sâu mầu của Bồ-tát làm tông; lấy việc chiếu soi chư thiên khiến sinh tâm hoan hỉ làm dụng; đã gọi là Kinh vương, thì giáo gồm thâu các kinh khác. Có thể biết, kinh này lấy vật báu làm tên, lấy quả cùng tột làm thể, lấy công đức sâu xa làm tông, lấy đại làm dụng, lấy vương làm giáo, từ thể Bất nhị mà chia bốn phần. Kinh này được Phật Thế Tôn bảo vệ, chư Phật trong mười phương ba đời cũng thế; tất cả các Bồ-tát khắp nơi kính lễ, thọ thần thiện nữ tuôn lệ mà tán dương; chư thiên dùng uy trời che chở, địa kì dùng chất màu mỡ để tưới nhuần; lại thêm Đại Biện giúp cho tài biện, Công Đức ban cho tài bảo, khiến các cõi hết khô cằn, ba đường tiêu nóng bức.
Tóm lại, tất cả những việc xưa nay chưa từng xuất hiện ở thế gian, thì nay đã xuất hiện. Vì thế người giảng nói kinh này, Kim Long tôn chủ ba đời ca ngợi, Địa thần phát nguyện hộ trì. Thánh chúa đã như thế, huống gì thứ dân mà muốn bỏ đạo này sao? Thật muốn nương vào nghĩa này để luận thuật ý kinh, mong vài giọt sương rơi vào biển cả, đồng thành vị mặn; tất cả chim chóc trở về rừng sâu, đều biến một sắc màu”.
Lại nữa, Từ Giác Đại Sư luận về kinh này như sau:
“Linh tâm bặt đối đãi, dứt sạch muôn vật mà độc tồn; diệu hạnh khó nghĩ bàn, luôn tùy duyên mà hiện khắp. Đó chính là: chân như pháp tính chẳng dính mảy trần, trong sự tướng môn không bỏ một pháp. Cho nên, Như Lai xuất thế thuyết kinh Kim quang minh, dạy nương tâm thanh tịnh để lập hạnh giải thoát. Ngài bày ra kinh điển xuất trần, muốn vĩnh viễn quét sạch mê tình; chỉ cho kho tàng bảo vương, mong chóng thành tựu trọn vẹn đại dụng. Phàm định Bồ-tát Tín Tướng làm người khởi giáo, tức nêu Bồ-tát chẳng kẹt nơi hạnh Không; nơi Kiên Lao địa thần có bài tụng Tán không, thì hiển pháp thân chẳng thể cầu nơi hữu tướng. Tính tướng dung thông, hữu vô đồng lập, đó là yếu nghĩa của kinh này vậy. Đến như nói về bản nguyên pháp tính chư Phật, là để định nguồn thọ lượng của Như Lai; ánh sáng chiếu khắp tam thiên, tức phát dương môn Nhất thiết trí; trống vàng xuất âm, là hiển thị vô biên diệu dụng; đây chính là gốc khởi hạnh của Bồ-tát.
Sám trừ tội chướng vốn là pháp môn như mộng, ca ngợi Như Lai là nêu diệu quả tu hành. Ma-ha Tát-đỏa thí thân cho hổ đói, thật là khéo xả khéo tu; trưởng giả Lưu Thủy cứu đàn cá, thật có chung có thỉ, đây tức là hạnh nương chân tính của Bồ-tát vậy. Thí như mặt trăng treo trên hư không, bóng trăng chìm trong vô số dòng nước; vàng ròng tạo thành vật dụng, thể chỉ một mà tướng trạng có muôn nghìn. Thật là chủ bạn viên dung, nhất đa tự tại. Nếu có thể nơi một pháp mà thụ nhận tất cả pháp, thì mới tin bí tạng của Như Lai thật là xe báu cho ba cõi, là môn trang nghiêm tính hải, là nền tảng hướng đến Giác vương. Vì thế mười nghìn vị trời nghe kinh này, liền đốn chứng Bồ-đề; chúng sinh nào thể nhập đều đồng được một vị cam lộ. Thế thì, thấy nghe tùy hỉ, đọc tụng, thụ trì, nơi một niệm thấu suốt được pháp môn Vô thượng, mà cho là duyên nhỏ sao? Kính xin pháp lữ tư duy kĩ ý Phật”.
Trong bộ Kim quang minh kinh sớ, ngài Cát Tạng cũng đã nói:
“Pháp thân rỗng lặng mà thọ mạng có ngắn dài, bậc Chí nhân bặt nghĩ suy nhưng có cảm liền ứng. Bởi đấng Đại Giác lập phương tiện tùy cơ duyên thuyết pháp, nên có việc bốn Phật hiện nơi thất, luận yếu chỉ thường trụ, Bồ-tát cảm mộng lành chỉ bày pháp sám hối. Nhân chỉ có hai thiện mà tổng gom muôn hạnh, quả đạt đến bồ-đề mà thọ lượng sánh hư không. Vì thế hàng Bồ-tát Thập địa tu theo lí này, bốn vị thiên vương đồng ca ngợi và bảo vệ. Lại nữa, y kinh giảng thuyết chướng nạn tiêu trừ, nương pháp nguyện cầu phúc lạc tùy tâm. Cho nên kinh này lấy chính pháp trung đạo làm thể, ba điểm-bốn đức làm tông vậy.
Nếu phiên đầy đủ theo âm tiếng Phạn, thì tên bộ kinh này là Phật-đà bàn-già tu-bạt-na-bà-la-bà-tu tu-đa-la. Trong đó, Phật-đà, Trung quốc dịch là Giác, bàn-già là thuyết, tu-bạt na-bà-la-bà-tu là Kim quang minh, tu-đa-la gồm năm nghĩa, nhưng ở đây chọn lấy nghĩa Kinh. Kinh nghĩa là pháp, là thường, là do; vì thế nên gọi là kinh Giác thuyết kim quang minh, hay kinh Kim quang minh.
Kinh này xếp vào tạng Đại thừa Bồ-tát, thuộc về Đốn giáo. Nếu nói đến chỗ cùng tột, thì kinh này trình bày ba loại ba pháp: 1, ba thân quả Phật; 2, ba đức niết-bàn; 3, ba loại Phật tính. Trong đó thể của vàng (Kim) là chân thật dụ cho Pháp thân, dụng của ánh sáng (quang) là chiếu soi dụ cho Ứng thân, sự sáng (minh) làm lợi ích cùng khắp dụ cho Hóa thân.
Bốn đặc tính từ thể của vàng (Kim) dụ cho bốn đức của Pháp thân: 1, màu sắc không biến đổi tức là thường; 2, không nhiễm ô tức là tịnh; 3, tùy ý chuyển đổi, tạo các vật dụng một cách vô ngại tức là ngã; 4, làm cho người trở nên giàu có tức là lạc. Hai đặc tính của ánh sáng (quang) là năng chiếu và năng trừ dụ cho bát-nhã; hai đặc tính của sự sáng (minh) là không tối tăm và rộng xa dụ cho giải thoát, không còn các nỗi lo sợ.
Thể của vàng (Kim) vốn có dụ cho Chính nhân trước khi ngộ đạo; dụng ánh sáng (quang) mới có dụ cho Liễu nhân trong lúc chứng đạo; sáng (minh) thì không tối dụ cho cực quả sau khi chứng đạo.
Vì dùng ba đặc tính của vàng dụ cho ba loại ba pháp, nên gọi là Kim quang minh”.
Trên đây là ba đoạn Huyền nghĩa của ba Đại sư đại biểu cho ba tông: Thiên Thai, Thiền Tịnh, Tam Luận, nội dung bàn về chỗ cùng tột của kinh Kim quang minh.
Lợi ích khi tụng Kinh Kim Quang Minh
Ai người mong cầu thế giới được bình an, hãy trì tụng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim. Đây là pháp hành trọng yếu khi cần ngăn chận bạo động chiến tranh trên thế giới. Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim là một trong những phương pháp hữu ích nhất có khả năng mang lại nền hòa bình. Ai cũng làm được, bất kể bận rộn đến mức nào, dù chỉ đọc mỗi ngày một trang, hay vài hàng, cứ liên tục như vậy, hàng ngày đều đọc tụng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim.
Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim nhiệm mầu này là vua của các kinh, vô cùng mãnh liệt, có khả năng toàn thành mọi nguyện ước, và có khả năng mang lại niềm an vui hạnh phúc đến cho khắp cả chúng sinh, chí đến quả vô thượng bồ đề. Kinh này đặc biệt mãnh liệt đối với nền hòa bình thế giới, bảo vệ cho sự an nguy của mỗi người, bảo vệ quốc gia, bảo vệ trái đất. Và kinh này cũng có khả năng xoa dịu chữa lành mọi thống khổ của người dân trong một nước.
Ai người mong cầu an vui hạnh phúc cho bản thân và cho tất cả, thì đây chính là Diệu Pháp giúp ta thực hiện điều này mà không phải gây hại cho bất cứ một ai, không cần chỉ trích xung đột vẫn đạt được nguồn an vui.
Kinh này ai cũng đọc được, Phật tử hay ngoại đạo ai người cầu mong hòa bình đều có thể đọc. Kinh này cũng bảo vệ cho cá nhân từng người và bảo vệ cho quốc gia thoát cảnh thường gọi là thiên tai, liên quan đến các thành phần đất, nước, lửa, gió, như nạn động đất, lũ lụt, sóng thần, cuồng phong, hỏa hoạn v.v… Gọi là thiên tai, nhưng không phải nhiên không mà có, đều do nhân duyên. Do ý nghĩ và hành động độc ác của chúng ta đã từng gieo trong quá khứ, cùng những nguyên nhân đến từ ngoại cảnh.
Lợi ích đọc tụng kinh này không thể nghĩ bàn. Lời kinh nói rằng dù mang vàng ngọc châu báu nhiều bằng số lượng vi trần trong Thái Bình Dương cúng dường cho vô lượng Phật đà, công đức ấy vẫn không thể sánh với công đức đọc tụng dù chỉ vài dòng Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim.
Đọc tụng kinh này sẽ đưa ta đến với quả giác ngộ. Công đức đọc tụng kinh này nhiều đến nỗi mọi việc đều trở nên suôn sẻ, đời sống thuận tiện dễ dàng, muốn gì được nấy, đều nhờ năng lực tịnh nghiệp và tích phước vô cùng khó tin. Bằng cách này chúng ta có thể giúp vô lượng chúng sinh thoát biển rộng khổ đau sinh tử, đưa chúng sinh đến bờ giác ngộ.
Nhờ chép Kinh Kim Quang Minh siêu độ cho oan gia mà thoát chết
Ông trưởng Cư Đạo ở Ôn Châu, nhân cuộc lễ vu quy cho con gái, giết heo, dê, gà, vịt rất nhiều để tổ chức tiệc. Sau hôn lễ một tuần, Cư Đạo bị bệnh nặng chết. Nhưng được ba hôm thì sống lại, mọi người ban đầu hoảng sợ. Sau đó bình tĩnh lại nghe ông ta thuật lại sự tình rằng:
– Khi hồn tôi vừa lìa khỏi xác, thấy bốn người đi đến, trao cho một văn thư. Tôi cầm xem, thì là lời tố tụng của súc vật vừa bị giết. Đại khái bên nguyên cáo thưa: “Chúng tôi tuy đời trước gây tội nay thọ thân súc sinh, nhưng sự trả quả có kỳ hạn. Nay Trương Cư Đạo ra tay tàn độc, xin Minh Ty đòi y đến đối chất để giải sự oan khổ này!”.
Tôi xem vừa xong, liền bị Minh sứ trói tay dẫn đi về hướng Bắc. Dọc đường sứ nhân bảo: “Theo phước phận thì ông chưa đến đỗi mất mạng. Nhưng ông làm sao giải tỏa được kiện tụng của hơn ba mươi oan mạng, để mong sống lại?”. Tôi tự hối trách, cầu ông ta chỉ cho một lối thoát.
Minh sứ trầm ngâm giây lát rồi bảo: “Chỉ còn một lối thoát là ông phải phát nguyện tạo bốn bộ Kinh Kim Quang Minh để cầu siêu cho các oan gia, họa may mới được khỏi!”.
Kế đó, tôi bị dẫn đến trước vua Diêm La. Nhìn quanh, trong điện có vô số người, tiếng than xót nghe kinh lòng động phách. Giây lát tới phiên mình bị gọi ra xét xử.
Tôi liền quỳ xuống, thành tâm nguyện tạo bốn bộ Kinh Kim Quang Minh, cầu cho các oan mạng được siêu thoát, để đền trả sự lỗi lầm. Diêm vương và các oan gia đều hoan hỷ chấp nhận. Do đó, tôi mới được tha về…”.
Vài hôm sau khỏe lại, Trương Cư Đạo mua giấy tốt, thuê các thư sinh viết chữ khéo đến chép kinh. Nhiều vị nghe việc này cũng phát tâm chép kinh, kể hơn trăm người. Còn những kẻ biết được chuyện oan báo, đều kinh sợ ăn chay giới sát, không thể kể số.
Mời bạn đọc tụng kinh Kim Quang Minh tại đây:
Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương – Biên dịch Tỳ Kheo Thích Nguyên Chơn
Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim – Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch
Tâm Hướng Phật!