Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng và niệm thánh hiệu Bồ Tát Địa Tạng

Kinh Địa Tạng là một trong những bản Kinh quan trọng nhất thời mạt pháp, người trì tụng cảm được sự linh ứng của Kinh Địa Tạng rất nhiều.

Tông chỉ tu hành của Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện được thể hiện qua tám chữ: Hiếu đạo, Độ sanh, Bạt khổ, Báo ân.

Tựa đề của Kinh Địa Tạng là “U minh Giáo chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát”. Có nghĩa là đấng giáo chủ cõi U minh là Bổn Tôn Địa Tạng Bồ tát. Một Ngài Bồ tát tên Địa Tạng, Ngài cầm trong tay phải một cây tích trượng và tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng sinh, nếu chúng sinh chí thành niệm danh hiệu của Ngài.

“Bổn” là Bổn tâm. “Tôn” là tôn quý, “Địa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Chỉ có Bổn tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tạng tâm địa; chỉ có Bổn tâm mới làm chủ được cõi U minh, tức làm chủ cõi địa ngục tham, sân, si của chính mình.

Địa ngục chính là địa ngục tham, sân, si. Chúng sinh khổ là do tham, sân, si đầy dẫy trong tâm, phiền não khởi phát. Muốn phá được cửa địa ngục này cần phải là Bổn Tôn Địa Tạng của chính mình vậy. Quan trọng là bản thân nhận ra được bản tính Như Lai trong tâm, thì mình mới có thể đập phá được địa ngục tham, sân, si và cứu giúp chúng sinh muôn loài.

Kinh Địa Tạng là một trong những bản Kinh quan trọng nhất trong thời mạt pháp, người trì tụng cảm được sự linh ứng của Kinh Địa Tạng rất nhiều. Nếu bạn không tin, thử ăn chay và tụng ngày 2 biến, trong khoảng 15 ngày thôi, bạn sẽ tự mình được trải nghiệm sự nhiệm mầu của Phật pháp.

Hòa Thượng Tuyên Hóa, là hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hết sức coi trọng Kinh này, Ngài dạy: “Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ “Hiếu Kinh” của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.”

Lại Kinh mô tả hạnh nguyện sâu rộng của Địa Tạng Bồ Tát, mô tả chi tiết về nhân quả tội phước chiêu cảm nên các cảnh giới của Địa Ngục, nên người xem do thấu hiểu nhân quả mà biết hướng thiện làm lành. Thời mạt pháp nhiễu loạn thông tin, người ta rao truyền đủ thứ tà kiến, mê tín dị đoan: Nào là tụng Kinh Địa Tạng ma quỷ đến. Nào là Kinh Địa Tạng là ngụy kinh…Chẳng biết rằng: “Đây là bản Kinh ngàn kiếp khó gặp, nếu chẳng phải thiện căn sâu dày, dù chỉ là tên Kinh còn chẳng được nghe đến, huống là trì tụng đó ư”.

1. Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng trích theo “Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục”

Rất nhiều người có thiện duyên gặp được Kinh này, hoặc phát tâm trì tụng, hoặc trì niệm thánh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng đều được tiêu tai chướng nghiệp, phước tăng, trí huệ và một số khả năng thần thông được khai mở…

Xin trích dẫn những câu chuyện có thật, trong sách “Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục”, về sự cảm ứng nhiệm mầu của việc trì tụng Kinh Địa Tạng và trì niệm Thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát cho người hữu duyên, nguyện hết thảy cùng lìa khổ được vui, cùng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ!

Lễ bái danh hiệu dễ sinh con

Vương Bích Bàn cư sĩ có trưởng nữ gả cho nhà họ Trương. Năm trước theo chồng đi Hà Nam, làm việc ở mỏ than khi đang có mang. Cư sĩ dạy con lấy một tờ giấy màu vàng, trên viết “Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” đặt trên bàn thờ. Hàng ngày thắp hương lễ bái sẽ được Bồ Tát gia bị.

Con gái nghe theo lời Cha, quả nhiên khi sinh đẻ thật dễ dàng. Dù ở nơi biên địa, không có bác sĩ đỡ đẻ, nhưng không chút đau đớn gì. Hai năm sau lại có mang, cô cũng làm theo như vậy. Trước sau sanh được một trai một gái, đều khỏe mạnh, diện mạo khôi ngô, trí tuệ thông minh và hiền hòa. Mọi người chúng tôi đều thấy sự việc này.

Khỏi bệnh tăng phước

Mùa hạ 18 năm về trước, con tôi vì bệnh nặng nên đến Lư Sơn để an dưỡng. Lúc đó Lương Bích Viên cư sĩ cũng ở cùng. Thấy cháu nằm trên giường 4 tháng chẳng thể dậy, nên kể chuyện về sự linh ứng của Kinh Địa Tạng cho cháu nghe và khuyên cháu đọc Kinh Địa Tạng để cầu khỏi bệnh. Cháu nghe lời làm theo, nửa tháng sau bệnh thuyên giảm rồi không thuốc mà tự khỏi.

Sau đó con dâu có mang, năm sau sinh một con trai. Hai vợ chồng in nhiều cuốn Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục phát cho mọi người để báo ơn Phật.

Giúp mẹ khỏi bệnh

Mẹ tôi tên Trương Thị, 50 tuổi, tính tình hiền hậu. Bà thuộc lòng Chú vãng sanh và Kinh Quán Âm, trường chay đã mấy năm. Cách đây ít năm đột nhiên mẹ không đi được, hai tay vô lực, lưng còng xuống đi lại ở trong nhà phải vịn ghế. Sau hai mẹ con quy y Tam Bảo, thờ Quán Âm và Địa Tạng, sớm chiều kính lễ tụng niệm. Mẹ tuy bệnh tật nhưng cũng thời khóa hàng ngày không bỏ.

Một năm sau tôi phát tâm tụng Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện để cầu cho mẹ khỏi bệnh. Vì Kinh Địa Tạng quá dài, lại vất vả về sinh nhai nên khó tụng niệm được toàn kinh. Tôi chỉ đọc Phẩm thứ mười ba, thuộc lòng đề kinh của từng phẩm một, chủ yếu là trì niệm Thánh hiệu.

Được vài tháng thì một hôm mẹ đang ngồi lăn ra bất tỉnh. Tôi hốt hoảng chắp tay chí tâm xưng niệm Thánh hiệu. Kỳ diệu thay, sau 10 câu thì mẹ tỉnh, nôn ra 2 bát nước màu đen. Sau đó mời bác sĩ khám thì họ bảo bệnh khó mà thọ được.

Hàng ngày tôi quỳ trước tượng Bồ Tát Địa Tạng, gia tăng lễ bái, cầu Bồ Tát gia bị. Một tháng sau mẹ dần dần chống gậy đi lại được. Đến nay bà đã 64, đi lại không cần gậy, hàng ngày lễ Phật niệm Phật tinh tấn. Có bệnh hơn mười năm không nhờ thuốc thang mà tự khỏi là điều lạ trên thế gian. Tất cả đều là sự linh ứng nơi Địa Tạng Bồ Tát mà có được. Ngài thệ nguyện sâu xa, làm lợi ích cho chúng sanh không thể kể xiết. Nếu ta thành tâm phát nguyện cầu ngài gia bị, chắc chắn sẽ được cảm ứng!

Khỏi mù lòa

Thành Phục Sơ cư sĩ ở Thái An Cam Túc theo đạo Lão từ năm mười sáu tuổi, rất tích cực báng phá Phật pháp. Đến năm Dân Quốc thứ 16 (1927) mắt bên phải bị mù. Năm 20 tuổi, mắt bên trái cũng vậy. Về sau duyên may gặp và quy y với Ấn Quang Đại Sư. Y một lòng sám hối, tu tịnh, bắt chước lập hạnh của Liễu Phàm, học pháp Tịnh Ý cải tâm.

Một thời gian sau, tuy được tâm địa sáng suốt, nhưng đôi mắt vẫn còn mù lòa. Bèn phát tâm trích máu nhờ người vẽ tượng Phật. Ngày 17 mùa đông năm Ất Hợi (Dân Quốc 24), sáng dậy lễ khóa như bình thường. Khi tụng đến chữ đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Chữ Bồ vừa đọc ra, chữ Tát còn chưa đọc thì thấy trước mặt có một luồng hào quang chói lòa. Trong chớp mắt hai mắt sáng lại, nhìn thấy rõ mọi vật.

Được vãng sanh

Chị dâu Trương Thị tên là Thọ Thân. Sinh ra trong gia đình lương thiện, thông minh từ nhỏ. Chị ở nhà nổi tiếng là hiếu thảo. Khi đến tuổi cập kê về Giang Hạ làm dâu của Trưởng Tôn Du Đường Công. Lấy nhau được 49 ngày thì chồng chết, chị thề thủ tiết thờ chồng.

Mẹ chồng bị bệnh nặng, thuốc thang đều vô hiệu, chị cắt thịt để làm thuốc cho mẹ. Sự hiếu thảo kinh động cả quỷ thần nên mẹ chồng được tăng thọ thêm 3 năm. Họ hàng nội ngoại đều khen ngợi đức độ của chị. Có người trong hoàn cảnh đói khổ hay bệnh tật đến nhờ cũng được Trương Thị tận tâm giúp đỡ, chưa hề thoái thác. Chị sống rất là đạm bạc, đơn giản, hay giúp đõ người khác.

Tháng 5 năm Dân Quốc thứ 30 (1941) Đại Đức Hoằng Nhất Pháp Sư hoằng dương Chánh pháp. Chị dâu rủ tôi cùng đi gặp Pháp Sư và quy y Tam Bảo. Tôi vì góa bụa, nên sớm chiều bầu bạn với chị hơn mười năm.

Một hôm chị phát hiện ung thư vú, bệnh mỗi ngày càng thêm nặng. Dù đau ốm vẫn trường trai, một lòng niệm Phật cầu sinh Tây Phương. Khi chị hấp hối, đứa cháu nội chín tuổi là Tôn Thừa Kinh, bỗng nhiên thét lớn, mặt mũi tái mét. Mọi người vỗ về hỏi tại sao? Kinh đáp: “Sau lưng Bà có một người tướng mạo như Phật, cao lớn, đầu đội mũ có nhiều góc. Mình mặc áo có nhiều vải vá, tay cầm cây trượng dẫn dắt Bà nội đi”.

Do trong nhà có treo bức họa ảnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát, mọi người mới ngỡ ra là Thịnh đức cảm được Địa Tạng Vương Bồ Tát đến tiếp dẫn bà qua Tây Phương. Qua năm ngày sau hỏa táng ở Vũ Sơn, lấy ra tro hài cốt trắng trẻo sạch sẽ, đựng vào trong hủ, hiện gửi ở núi Thanh Nguyên, hang Di Đà, để chờ chọn ngày xây tháp kỷ niệm.

Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng và niệm thánh hiệu Bồ Tát Địa Tạng

2. Sự linh ứng của Kinh Địa Tạng – Trích theo “Báo Ứng Hiện Đời”

Thai nhi nghe kinh Địa Tạng, hóa giải được oán hờn

Chàng trai Mạnh Vĩ và cô gái Chung Hồng là đôi tình nhân có đồng tín ngưỡng Phật. Sau khi kết hôn, cả hai đồng tâm đồng chí, cùng tụng kinh, trì giới tu hành, là gia đình Phật hóa gương mẫu, họ sống rất hạnh phúc, khiến các bạn đồng tu phải hâm mộ, ước ao.

Bạn gái Chung Hồng là Lan, xấp xỉ tuổi nàng, đã kết hôn trước. Trong thời kỳ mang thai, cũng nhờ Lan chí thành tụng kinh Địa Tạng, kinh Phổ Môn, khuyên ngăn gia đình không nên sát sinh giết vật cho nàng tẩm bổ, nhờ vậy mà vợ chồng Lan cứ nối tiếp sinh ra những đứa con cưng xinh đẹp đáng yêu. (Những đứa bé nhờ ba mẹ tụng kinh mà sinh ra thường có chung một đặc điểm là rất thông minh, xinh xắn; linh hoạt; hay cười và ít khóc, chẳng làm rộn ba mẹ).

Đến khi Chung Hồng mang thai, vì thương con, hai vợ chồng bắt đầu tụng kinh Địa Tạng, hy vọng sẽ sinh ra một đức bé thiện căn sâu dày, xinh đẹp ưng ý.

Trong thời kỳ có mang, cái thai trong bụng Chung Hồng thường phản ứng mạnh bạo, bé hành mẹ rất dữ, khiến nàng hay buồn nôn, bực bội, bị sưng phù, xương thần kinh tọa bị đau… ăn không ngon, đêm chẳng ngủ an. Tóm lại, nàng nếm mùi đau khổ nhiều hơn những thai phụ khác.

Chỉ có điều khiến cả nhà thấy an ủi là, buổi tối trước khi lâm bồn, sau khi khám thai lần chót, thấy tim thai, tất cả đều bình thường. Bác sĩ dự tính ngày sinh đúng vào ngày mồng một tết, đây là ngày khiến toàn gia càng hoan hỷ.

Đêm giao thừa, nhà nào nhà nấy vui vẻ đoàn tụ, tiếng pháo nổ giòn tan, đứa bé trong bụng Chung Hồng cũng khoa chân múa tay, đánh đấm lung tung. Mẹ chồng Chung Hồng nói:

– Đứa bé này coi bộ rất nôn nóng muốn ra chơi pháo đây mà!

Câu nói đùa của bà khiến ai nấy cười xòa.

Nhưng thế sự vô thường, tới ngày sinh, mới biết đứa bé do bị cuống rốn quấn quanh cổ mà chết. Chết ngay trong đêm giao thừa, chết sau lần cử động mạnh cuối cùng. Trong khi tất cả mọi người đều hân hoan nô nức, ngóng trông, chờ đợi bé ra đời.

Tin dữ này đúng là sấm nổ giữa trời quang. Không những khiến vợ chồng Chung Hồng bất ngờ và đau khổ tột độ mà cũng khiến tôi hết sức kinh ngạc và thắc mắc, không sao hiểu nổi.

Sáng hôm đó, khi Chung Hồng nhập viện chờ sinh và nhận được hung tin thai đã chết đêm qua, tôi cũng “sốc” đến quên bén luôn đó là mồng một năm mới.

Khi nhìn cảnh một người cha trẻ tuổi đứng chờ trước phòng sinh, nhưng chàng biết mình vĩnh viễn không nghe được tiếng khóc chào đời của con thơ. Một người mẹ trẻ đợi lâm bồn, nhưng cô biết rõ mình tuyệt không còn có thể sờ vào thân thể còn sức sống của con nữa. Lúc đó, quả thật tôi nghĩ không ra lời lẽ nào trong nhân gian để mà an ủi họ.

Trước tình cảnh này, tôi nghĩ gì cũng không thông, tại sao trời cứ khăng khăng bắt hai vị Phật tử chí thành phải mang lấy họa lớn mất con? Điều này không những khiến cha mẹ hai bên mất đi lòng tin Phật, thân quyến họ còn hung hăng, một bề chỉ trích Mạnh Vĩ và Chung Hồng quá mê Phật giáo, có khả năng hai vợ chồng họ sẽ thối thất đạo tâm.

Do vậy, dù đang ở trước sản phòng, tôi vẫn gọi điện kể cho Hòa thượng Diệu Pháp nghe hết mọi sự.

Thật là ngoài sức tưởng tượng, Sư phụ nghe xong không nói nửa câu thương tiếc hay chia buồn, mà lại nói “Lành thay, lành thay!”

Ngài còn sai tôi đi tìm Mạnh Vĩ hỏi ngay là có phải hồi xưa ông nội anh hành nghề đồ tể và đã giết rất nhiều heo?

Sư phụ còn giải thích cho tôi nghe:

– Thai nhi lần này chính thực là oan gia, oán cừu – quyết lòng tới đòi nợ họ – Vì vậy mà kể từ lúc thần thức vừa nhập thai, ngày nào nó cũng hành hạ sản phụ, khiến cả nhà không được phút giây an ổn. Thế nhưng, hai vợ chồng Mạnh Vĩ, Chung Hồng thành tâm sám hối niệm Phật, tụng kinh… nên thai nhi dần dần tiếp thọ Phật pháp. Huống nữa, cha mẹ vì thai nhi mà tụng kinh Địa Tạng. Mà kinh này: “Chuyên giúp tiêu trừ nghiệp chướng tiền khiên”. Nhờ vậy mà trong suốt gần mười tháng nghe kinh, thai nhi đã thực sự được lợi ích. Do nghiệp chướng tiêu trừ và lòng nó cũng tiêu luôn niềm oán thù sân hận đối với ông nội Mạnh Vĩ, tiêu tan hẳn ý niệm muốn tìm con cháu hiện tại của ông mà báo thù. Hiện tại vong hồn thai nhi đã siêu thăng lên thiên giới tu hành rồi, nó chẳng còn quay lại thế gian để tìm kẻ thù báo oán làm chi nữa.

Tôi hỏi:

– Thế thì vì sao thai nhi đến lúc sắp sinh mới chết?

– Có hai lý do, một: Mẹ con duyên phận chưa tận. Hai: thai nhi ưa nghe kinh thính pháp. Vì vậy mà nó một mực kiên trì đến phút cuối mới chịu lìa xa. Nói ngược lại, nếu như vợ chồng họ không tin Phật, chẳng chí thánh niệm Phật tụng kinh, thì đứa bé này nhất định sẽ chẳng thể chết đi, nó sẽ sinh ra thuận lợi, nhưng mà toàn gia bọn họ, sẽ tùy theo tuổi tác trưởng thành của đứa bé, mà phiền não ngày càng tăng. Cuối cùng dòng họ Mạnh sẽ lâm vào cảnh “Gia phá nhân vong”, sẽ bị hủy diệt hoàn toàn trong tay đứa bé này. Bởi vậy, khi thai nhi chết, ai nhìn vào cũng tưởng bất hạnh, toàn gia ôm khổ đau thống thiết, nhưng thực sự các vị đang được hưởng phúc, tiêu tai họa đấy. Đây chính là điều đáng chúc mừng!

Tôi nghe Sư phụ giảng giải xong, tinh thần phấn chấn hẳn lên, mây đen nghi ngờ tiêu tan. Tôi lập tức đến chỗ Mạnh Vĩ đang chìm đắm trong niềm bi thống, xác minh ngay mọi điều Sư phụ vừa kêu tôi hỏi, té ra tất cả đều đúng y như vậy.

Mạnh Vĩ nhìn nhận ông nội chàng thuở sinh tiền chuyên sống bằng nghề đồ tể giết heo. Trước lúc chết ông còn phát bệnh rất kỳ quái. Không những ra lịnh, kêu người phải treo ông lên, không ngừng dùng chùy đánh vào ông, ông nói có làm vậy thì ông mới thấy thoải mái. Ông chết rất thống khổ, không những ọc máu tươi mà ánh mắt cực kỳ hung dữ. Xưa nay Mạnh Vĩ không bao giờ nhắc đến việc tổ phụ lâm chung thê thảm cho người ngoài nghe.

Rồi Mạnh Vĩ kể chuyện về ông Hùng, một người bạn của ông nội chàng làm nghề đồ tể mổ bò, mỗi ngày giết mấy con. Ông Hùng nhờ nghề này mà giàu có. Một hôm ông Hùng đi chơi về, vừa vào nhà nằm nghỉ bỗng than tức ngực, khó thở. Lát sau vợ ông vào thăm, thấy ông nằm bất động trên giường lau không tỉnh, gọi không đáp. Bèn mời bác sĩ đến.

Khi bác sĩ đến thì thấy ông Hùng rống lên đau đớn âm thanh giống như tiếng bò bị đập đầu, tiếp theo toàn thân co giật ghê rợn, rồi hộc máu chết. Ông chết cả buổi rồi, máu tươi vẫn còn ứa ra từ miệng. Nhìn cảnh đó, ai cũng kinh hãi. Con cháu ông Hùng nghe lời phụ thân chàng khuyên, bèn dẹp lò mổ, không theo nghề sát sinh nữa.

Mạnh Vĩ kể, chành đã chứng kiến nhiều cảnh chết chóc của những người làm nghề giết mổ gia súc và thấy rằng, đa số bọn họ dù chết trẻ hay chết già, đều chết rất thê thảm và trước khi chết miệng luôn ọc máu tươi.

Đây cũng là nguyên nhân khiến chàng nhất tâm học Phật. Tất cả chú, bác và các cô của Mạnh Vĩ đều bị bệnh tật triền miên, cha chàng bị đau xương sống, xương sụn đều nhức nhối, bác chàng thì bị bán thân bất toại, nằm liệt trên giường mười năm nay. Đến đời Mạnh Vĩ, anh của chàng chưa đầy bốn mươi thì bị bệnh thần kinh, suốt ngày luôn nghi ngờ người ta nói xấu sau lưng. Anh không thể làm việc được, còn Mạnh Vĩ và chị gái lúc nào cũng bị đau cột sống, chị chàng còn phải mổ nhưng trị không lành được.

Hòa thượng Diệu Pháp còn nói, nếu như chẳng phải nhờ Mạnh Vĩ chuyên ăn chay, học Phật tu tập, thì chàng cũng khó thể kết hôn. Bởi do gia đình nghiệp sát quá sâu nặng, số phần đã định con cháu phải bệnh hoạn lụn bại.

Bài pháp ngữ Hòa thượng Diệu Pháp vừa ban bố, giống như trận mưa xuất hiện kịp thời, rưới tắt ngúm ngọn lửa tà đang thiêu đốt, nung nấu tâm can mọi người. Giải trừ hết mọi nghi hoặc đang có trong lòng họ. Nhất là vợ chồng Mạnh Vĩ – Chung Hồng, họ đã chuyện buồn thành vui, hai vợ chồng bây giờ học Phật, tập tu càng thêm dũng mãnh tinh tiến. Tôi tin họ chí thành như thế, Chư Phật Bồ-tát cũng sẽ gia trì cho họ sớm sinh quý tử.

Thai nhi ưa nghe Kinh Địa Tạng

Trần nữ sĩ là láng giềng của tôi, vừa rồi cô tâm sự: “Con gái tôi có thai hơn bảy tháng, gần đây thai nhi ở trong bụng thường hay tay đấm chân đá, khiến mẹ nó vô cùng đau đớn”.

Tôi bảo bà, suy theo giáo lý Phật thì đứa con trong bụng là nghiệt duyên tìm tới đòi nợ hành hạ đây. Cũng có thể là do nghiệp sát sinh ăn thịt tạo thành. Tốt nhất từ hôm nay, thai phụ nên ngưng ăn thịt (tức là ngưng ăn mặn mà ăn chay hoàn toàn). Bà bảo cháu hãy vì thai nhi tụng một bộ kinh Địa Tạng thử xem. Chỉ cần cung kính nhất tâm tụng, sẽ có hiệu quả tốt.

Tôi còn nói thêm:

– Nếu như thai phụ kiên tâm trì tụng bảy bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho cháu, thì sẽ giải trừ oan gia giữa hai mẹ con, còn nếu như tụng kinh Địa Tạng rồi mà không có hiệu quả, thì tôi sẽ để con gái của bà ăn thịt lại…

Tiếp đến, tôi đưa bà cuốn kinh Địa Tạng để đem về cho con gái tụng.

Hôm sau, Trần nữ sĩ vui vẻ cảm ơn tôi. Bà nói:

– Đêm qua, tôi về nhà đem lời tiên sinh kể cho cháu nghe, nó nghe xong thì lập tức tắm rửa, khởi sự tụng kinh Địa Tạng. Tụng xong thì thấy thai nhi để yên không đánh đấm nữa. Cuối cùng đêm rồi con gái tôi cũng được ngủ an giấc. Đây là kỳ tích chưa từng có được trong mấy tháng gần đây.

Đồng thời con bà cũng từ bỏ thói quen ăn mặn. Trần nữ sĩ lại tán thán nói:

– Phật pháp thật quá linh nghiệm, giá như con gái tôi được mách bảo sớm một chút, ngày thường biết tụng kinh thì đâu đến nỗi phải chịu khổ như vậy?

Không bao lâu, con gái Trần nữ sĩ sinh ra một bé trai khả ái. Lúc sinh nở hầu như không bị đau đớn. Suốt một tháng ở cữ, mỗi ngày cháu đều tụng một bộ kinh Địa Tạng. trước đây, sản phụ ưa ăn mặn, nhưng kỳ quái là bây giờ hễ nghe đến thịt là rất ghét. Trần nữ sĩ hỏi tôi nguyên nhân vì sao?

Tôi bảo nghe mùi thịt không ưa, đó là nhờ công đức tụng kinh nên thân tâm được tịnh hóa. Khiến Phật tính vốn có tự thân hiển lộ, không còn muốn tiếp thọ thức ăn máu thịt của chúng sinh. Con gái bà giờ chỉ cần ăn nhiều thức chay rau quả, thân thể nhất định sẽ tốt hơn trước.

Trích: Báo ứng hiện đời tập 1: Cư sĩ Quả Khanh – Hạnh Đoan dịch

Bài viết cùng chuyên mục

Nếu gặp phải đại tai nạn chúng ta nên làm gì?

Định Tuệ

Người thế nào mới có thể tán thán?

Định Tuệ

Những lợi ích khi niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát

Định Tuệ

Người chân tu hành là người nhìn thấu, buông xuống

Định Tuệ

Những lợi ích của việc vuốt đầu niệm Phật cho trẻ trước khi đi ngủ

Định Tuệ

Người tu đạo cần tuyệt đối tránh tâm sân hận

Định Tuệ

Ăn thịt chúng sinh chính là ăn thịt người thân mình?

Định Tuệ

Niệm Phật là bí quyết chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn

Định Tuệ

Lục độ Ba la mật là gì? 6 phương tiện đưa người qua bờ giác

Định Tuệ

Viết Bình Luận