Trong Kinh Thư, ở thiên “Hoằng Phạm” có giảng về chữ “phúc” và phân ra năm loại (Ngũ Phúc) là phúc thọ, phú quý, khang ninh, tu hiếu đức, và khảo chung mạng.
Trong Kinh Thư, ở thiên “Hoằng Phạm” có giảng về chữ “phúc” và phân ra năm loại (Ngũ Phúc) là phúc thọ, phú quý, khang ninh, tu hiếu đức, và khảo chung mạng.
1) Phúc thọ (phước sống lâu). Loại phước thứ nhất là “phúc thọ,” nghĩa là “có phước, có thọ”—một người vừa được phước lại vừa được thọ nữa.
Thế nào gọi là “phước”? “Phước” tức là hết thảy đều rất tự nhiên, tự tại. “Thọ” là thọ mạng, tuổi thọ.
Người Trung Hoa thường dùng chữ “thọ” này theo nghĩa “trường thọ” (sống lâu). “Thọ” thì vốn có “trường thọ” và “đoản thọ” (sống ngắn ngủi); song nếu chỉ nói “thọ” mà thôi thì được hiểu là “trường thọ,” chứ không phải là “đoản thọ”; vì thế ở đây dùng chữ “phúc thọ.”
2) Giàu Sang (Phú quý). Loại phước thứ hai là “phú quý,” tức là vừa giàu có lại vừa sang trọng, tôn quý.
3) Khỏe mạnh bình yên (Khang ninh). Loại phước thứ ba là “khang ninh,” tức là thân thể vừa khỏe mạnh lại vừa yên ổn.
4) Thích làm điều lành (Tu hiếu đức). Loại phước thứ tư là “tu hiếu đức,” tức là thích làm việc tốt, thích hướng theo phương diện đạo đức mà xử sự.
5) Chết an lành (Khảo chung mạng). Loại phước thứ năm là sống đến già (chết già, không do tai nạn).
“Ðức” cũng có năm loại (Ngũ Ðức) là ôn, lương, cung, kiệm, nhượng. Có người nào hội đủ được năm đức hạnh này chăng? Ðó chính là Ðức Khổng Tử!
1) Ôn hòa (Ôn). “Ôn” tức là ôn hòa, không nóng không lạnh, ấm áp vừa chừng. Nếu quý vị suốt ngày cứ như Quan Ðế Công, chẳng nói chẳng cười, thì là người quá lạnh lùng, lãnh đạm; còn nếu suốt ngày cứ cười đùa hi hi ha ha, thì lại thành ra quá nhiệt tình, quá niềm nở. Ðức Khổng Phu Tử thì ôn hòa, mẫu mực—đáng cười mới cười, đáng nói mới nói; không đáng cười thì không cười, không đáng nói thì không nói.
2) Lương thiện (Lương). Loại đức hạnh thứ hai là “lương thiện,” nghĩa là có lương tâm, lòng dạ hiền lành, tốt bụng.
3) Cung kính (Cung). “Cung” tức là đối với bất cứ ai chúng ta cũng cung kính lễ độ, không có thói khinh người.
4) Tiết kiệm (Kiệm). “Kiệm” tức là “kiệm phác”; có nghĩa là tiết kiệm, không làm hư hại, không lãng phí của cải vật chất. Thí dụ về vấn đề ăn uống, đáng lẽ phải ăn năm chén cơm mới thật no, nhưng bây giờ mình chỉ ăn ba chén mà thôi, bớt đi hai chén để dành cho những người đói kém hơn; như thế là tự kiềm chế để tiết kiệm cho chính mình.
Có câu:
Cho mình thì nên cần kiệm
Đãi khách thì cần rộng rãi.
(Tự phụng tất tu giản ước,
Yến khách thiết kỵ lưu liên.)
Ðối với riêng bản thân mình thì phải cần kiệm, đơn giản, bớt ăn bớt tiêu; những sự chi dụng về đồ ăn thức uống, áo quần giày dép, nơi ăn chốn ở…, thảy đều không nên cầu kỳ, xa xỉ, bày vẽ thái quá. Cho nên, chữ “kiệm” (cần kiệm) này vô cùng quan trọng.
5) Nhường nhịn (Nhượng). Ðây là loại đức hạnh thứ năm. “Nhượng” tức là khiêm nhường, nhường nhịn—đối với bất cứ việc gì chúng ta cũng không tranh giành để được ưu tiên, chẳng e sợ về sau mình bị thiệt thòi. “Nhượng” cũng là nhường cho người khác được “đệ nhất”—cái gì tốt thì để cho người ta được trước, còn cái gì không tốt thì chính mình lãnh lấy, đó gọi là “nhượng.” Chúng ta cần phải học tánh khiêm nhượng, nhường nhịn một cách lễ phép, lịch sự.”
(Nguồn: Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng trong Kinh Địa Tạng, quyển Trung, phẩm thứ Sáu)
nguồn: FB T Chan Ngo, sưu tầm
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Xin thường niệm A DI ĐÀ PHẬT, nguyện cầu sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc
Phật pháp không có BẢN QUYỀN
HOAN NGHÊNH CHIA SẺ, TUYÊN LƯU PHẬT PHÁP
Chia sẻ Pháp là cách cúng dường tối thượng!
Tâm Hướng Phật/St!