Hết thảy chúng sanh có người nào mà không cầu phước báo, có người nào mà mong muốn gặp tai họa chứ? Nhưng bạn phải biết rõ phước báo là từ đâu mà có, tai họa là từ chỗ nào mà ra.
Các vị đồng học. Mời xem câu thứ mười lăm của Cảm Ứng Thiên: “Thị đạo tắc tiến, phi đạo tắc thoái” (hợp đạo thì tiến, trái đạo thì lui). Bắt đầu từ chỗ này cho đến câu thứ ba mươi sáu là: “Dục cầu thiên tiên giả, đương lập nhất thiên tam bách thiện. Dục cầu địa tiên giả, đương lập tam bách thiện” (muốn cầu thành thiên tiên, hãy nên làm một ngàn ba trăm điều lành. Muốn cầu thành địa tiên, hãy nên làm ba trăm điều thiện). Đoạn này đều là nói về phước báo, ở trong toàn văn là đoạn lớn thứ ba.
Tám chữ “thị đạo tắc tiến, phi đạo tắc thoái” là nói tổng quát. Con người cần phải đoạn ác tu thiện, đây là chân lý muôn đời. Hết thảy chúng sanh có người nào mà không cầu phước báo, có người nào mà mong muốn gặp tai họa chứ? Nhưng bạn phải biết rõ phước báo là từ đâu mà có, tai họa là từ chỗ nào mà ra. Tám chữ này chính là cội nguồn của kiết hung họa phước. Điểm mấu chốt ở trong tám chữ này chính là chữ “đạo”. Chữ “đạo” này phải hiểu như thế nào? Ý nghĩa rất sâu rất rộng. Thông thường nói “đạo” là lý, đạo lý. Đạo cũng là con đường. Vậy thế nào là “thị đạo”, thế nào là “phi đạo”? Đây là điều mà chúng ta phải phân biệt rõ ràng.
Thiện tâm, thiện hạnh chính là “thị đạo”. Tâm hạnh bất thiện là “phi đạo”, đây là nói từ trên nhân. Là kiết, là phước đây chính là “thị đạo”. Là hung, là tai, là họa đó chính là “phi đạo”, đây là nói từ trên quả. Những sự lý nhân quả này chúng ta cũng nên biết rõ. Tiêu chuẩn mà trong Phật pháp lập nên chính là tánh đức. Phàm là tương ưng với tánh đức chính là “thị đạo”, đi ngược lại với tánh đức chính là “phi đạo”. Tánh đức nói đến chỗ rốt ráo thì chính là tâm tánh quy về nhất niệm. Cho nên nói đến cứu cánh thì nhất niệm là “thị đạo”, nhị niệm, tam niệm thì là “phi đạo” rồi. Cái tiêu chuẩn này cao, đây là tiêu chuẩn của chư Phật Như lai, của Pháp thân Đại Sĩ. Chỉ có họ mới có năng lực giữ được nhất niệm, không rơi vào niệm thứ hai. Cho nên quả báo của họ là đại kiết, đại phước, cảnh giới không thể nghĩ bàn. Trong kinh Đại Thừa thường nói đến “nhất chân pháp giới”. Nhất chân pháp giới từ đâu mà có vậy? Từ nhất niệm mà có. Nếu chúng ta không giữ được nhất niệm, không duy trì được thì biến thành tam tâm nhị ý, vậy liền biến hiện ra thập pháp giới y chánh trang nghiêm. Thập pháp giới y chánh trang nghiêm đối với Pháp thân Đại Sĩ mà nói là phi đạo.
Chúng ta phải hiểu rõ cái đạo lý này. Bản thân không làm đến được nhưng không thể không biết. Có như vậy trong quá trình tu học không đến nỗi được ít cho là đủ, biết cảnh giới hiện tại rất hữu hạn, còn phải phấn đấu nỗ lực không ngừng nâng lên cao. Thế nhưng ngay trước mắt chúng ta hạ mức độ của đạo xuống mức thấp nhất. “Đạo” là gì? Ngũ giới, thập thiện là “đạo”. Thế nào là “phi đạo”? Phá giới, thập ác là “phi đạo”. Tiêu chuẩn đã hạ đến mức độ này thì chúng ta có thể hiểu rõ, đã có chỗ khởi đầu. Bắt đầu từ ngũ giới, thập thiện. Đây là nói với đại chúng.
Đối với đồng tu niệm Phật mà nói, vì sao bạn niệm Phật? Mục đích của niệm Phật là gì? Hy vọng cầu sanh Tịnh-độ. Hay nói cách khác, không thể để cho cái hy vọng này tan vỡ, nhất định phải thực hiện, cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh Phàm Thánh Đồng Cư Độ cũng không hết hy vọng, nguyện của bạn cũng mãn rồi. Mức độ thấp nhất này là gì vậy? Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật nói với chúng ta Tịnh nghiệp Tam Phước. Đây là mức độ thấp nhất, nếu muốn cầu vãng sanh ngay trong đời này thì không thể không biết. Chúng tôi trước đây đã từng giảng Tịnh Nghiệp Tam Phước nhiều lần rồi, có băng ghi âm, cũng có băng ghi hình, hình như cũng có in sách lưu hành. Nói về Tam Phước, tổng cộng Phật đã nói mười một điều, mười một điều này chính là “đạo”, trái ngược mười một điều này chính là “phi đạo”.
Đối với phước thứ nhất, phước nhân thiên, cũng chính là đạo nhân thiên, bạn có thể phụng hành thì đời đời kiếp kiếp sẽ không mất thân người. Bạn không thể phụng hành thì đó chính là “phi đạo”. Phi đạo thì chắc chắn sẽ đọa ba đường ác. Bốn điều này là: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Chúng ta có hiểu ý nghĩa này hay không? Chúng ta có chịu làm hay không? Điều thứ nhất nói rõ thập thiện là căn bản của căn bản. Thế nào gọi là hiếu? Thế nào gọi là kính? Không thể không hiểu rõ ràng, ở đây tôi không giảng thêm nữa.
Phước thứ hai là tiêu chuẩn mà người Nhị Thừa tu, có ba điều: “Thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm uy nghi”, đây là vào cửa Phật. Phước thứ nhất là nền tảng để vào cửa Phật, vẫn chưa vào cửa, đến phước thứ hai mới là vào cửa, trở thành học trò của Phật. Chúng ta thử nghĩ xem chúng ta có tư cách làm học trò của Phật chưa? Học trò của Phật nhất định phải tuân thủ sự ràng buộc của Tam Quy. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm không trái với lời giáo huấn của Phật. Tam Quy, điều thứ nhất là “quy y Phật”. Trong “Truyền thọ tam quy” chúng tôi đã nói rất rõ ràng, rất tường tận rồi. Quy y Phật là giác mà không mê. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm có phải là giác mà không mê hay chưa? Giác đây là “thị đạo”, mê là “phi đạo”. Tư tưởng kiến giải của chúng ta có chính xác hay không? Tư tưởng kiến giải thuần chánh, tương ưng với Phật là “thị đạo”, tư tưởng kiến giải bất chánh, tà tri tà kiến là “phi đạo”, đây là ý nghĩa của “quy y Pháp”. Thứ ba là “quy y Tăng”, Tăng là sáu căn thanh tịnh, không nhiễm mảy trần. Chúng ta thử nghĩ, tâm của chúng ta có thanh tịnh không? Ý niệm của chúng ta có thanh tịnh hay chưa? Thân của chúng ta có thanh tịnh không? Hoàn cảnh cư trú của chúng ta có thanh tịnh hay không? Thanh tịnh là “thị đạo”, không thanh tịnh là “phi đạo”. Cho nên, đệ tử của Tam Bảo mỗi niệm phải tương ưng với “giác, chánh, tịnh”, đây là “thị đạo”. Nếu mỗi niệm là “mê, tà, nhiễm”, đây là “phi đạo”.
Tư tưởng ngôn hạnh phải y theo giới luật, đặc biệt là người mới phát tâm. Thật ra mà nói, Bồ-tát Đẳng Giác đều phải nghiêm trì giới luật từ lúc sơ phát tâm cho đến Như Lai địa. Các vị đã có khi nào thấy Phật Bồ-tát phá giới, phạm giới hay chưa? Không hề có. Hình tượng của Phật Bồ-tát đều làm lợi ích cho chúng sanh. Đệ tử Phật phải lấy Phật Bồ-tát làm tấm gương, học Phật, phải học cho thật giống. Lấy cái hình tượng này làm tấm gương cho xã hội, cho tất cả chúng sanh. Chúng ta phải hiểu cái đạo lý này. “Bất phạm uy nghi”, “uy nghi” chính là tấm gương tốt.
Phước thứ ba là nền tảng của Bồ-tát Đại Thừa, “Phát Bồ-đề tâm”, phát tâm Bồ-đề chính là phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Nguyện phát rồi phải thực hiện thì cái nguyện đó không phải nguyện suông, phải làm cho được. Cho nên Bồ-tát có tâm tàm quý (hổ thẹn), tâm tàm quý thúc đẩy động viên họ, khiến họ có thể quyết chí hướng thượng, dũng mãnh tinh tấn. Tàm quý là “thị đạo”, không tàm quý, không biết xấu hổ là “phi đạo”. “Thâm tín nhân quả” (tin sâu nhân quả), tôi giảng điều này giảng rất nhiều lần. Cái nhân quả này không phải là nhân quả thông thường. Nhân quả thông thường thì Bồ-tát đâu có đạo lý nào mà không biết chứ! Cái nhân quả này là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Thật sự là người biết cái đạo lý này không nhiều. “Độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, đọc tụng Đại Thừa chính là thân cận chư Phật Như Lai, một ngày cũng không được lãng phí, mỗi ngày đều phải thân cận chư Phật Như lai. Chư Phật Như lai ở đâu vậy? Các kinh Đại Thừa chính là chư Phật Như Lai, mỗi ngày phải đọc tụng.
Phương pháp đọc tụng là trước tiên thân cận một vị thiện tri thức, đây là bí quyết cầu học, cầu đạo của thế xuất thế gian. Người vào thời xưa gọi là “Sư thừa”, nhất định là ở tại một chỗ của vị thiện tri thức đó mà thành tựu. Sau đó mới có thể đi tham học khắp vô lượng thiện tri thức. Thành tựu bản lĩnh tham học ở dưới tòa của một vị thiện hữu thì mới có năng lực đi tham học. Cái bản lĩnh này là gì? Trong Kinh Bát-nhã gọi là Căn Bản Trí, tham vấn khắp tất cả thiện tri thức là thành tựu Hậu Đắc Trí, lúc đó trí tuệ mới viên mãn. Phần cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm đã làm tấm gương cho chúng ta, Thiện Tài Đồng Tử thân cận một vị thiện tri thức là Bồ-tát Văn-thù, đó là sư thừa. Ở dưới tòa Văn-thù, Thiện Tài đã đạt được căn bản trí, sau đó ra đi tham học, 53 tham nữa là thành tựu viên mãn hậu đắc trí, vậy là trí huệ viên mãn rồi. Không có căn bản trí thì bạn sẽ không có năng lực đi tham học. Căn bản trí là thật trí, trí huệ chân thật, họ có năng lực phân biệt chân vọng, có năng lực phân biệt tà chánh, đúng sai, thiện ác, lợi hại. Họ vừa tiếp xúc liền biết rõ, cho nên ra đi tham học, bất luận gặp người thế nào, bất luận gặp phải việc gì, đối với họ đều là khai trí huệ, không bị gặp phải chướng ngại. Nếu bạn không có cái bản lĩnh này, bạn đi tham học, một vị thiện tri thức chỉ bạn đi một con đường, hai vị thiện tri thức tức là hai con đường rồi, ba vị thiện tri thức, bạn chính là ở ngã ba đường, bốn vị thiện tri thức chính là bạn ở ngã tư, bạn biết phải đi về đâu chứ? Bạn không biết đi con đường nào rồi. Nếu bạn có bản lĩnh, bạn có thể phân biệt, có thể nhận thức, thế thì không sợ, dù thân cận nhiều thiện tri thức nhưng phương hướng của bạn, mục tiêu của bạn chắc chắn không thay đổi.
Chúng ta xem Thiện Tài Đồng Tử làm mẫu cho chúng ta. Thiện Tài Đồng Tử thân cận Bồ-tát Văn-thù, Văn-thù dạy ông điều gì? Dạy ông pháp môn niệm Phật, không đọc thấy điều này trong kinh văn, trong văn tự không có ý nghĩa đầy đủ. Ý nghĩa nằm ở đâu? Bồ-tát Văn-thù cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, Thiện Tài là môn sinh đắc ý nhất của Ngài, nếu không kế thừa y bát của Ngài thì sao có thể nói là đệ tử truyền pháp chứ? Bạn phải biết rõ cái ý nghĩa này. Thế Tôn dạy chúng ta “y nghĩa bất y ngữ” trong Tứ Y Pháp, bạn phải lĩnh hội được cái ý nghĩa này. Hãy thử xem Thiện Tài ra đi tham học, vị thiện tri thức thứ nhất là Tỳ-kheo Kiết Tường Vân, dạy ông điều gì? Dạy ông Bát Chu Tam-muội, Bát Chu Tam-muội là chuyên niệm A Di Đà Phật, còn gọi là Phật lập Tam-muội.
Vị thiện tri thức cuối cùng là Bồ-tát Phổ Hiền dạy ông Thập Đại Nguyện Vương dẫn về Cực Lạc. Từ đầu đến cuối chính là một pháp môn niệm Phật. Ông làm nên tấm gương để cho chúng ta thấy. Đó là “thị đạo” thì phải tiến, dũng mãnh tinh tấn, “phi đạo” phải lui cho nhanh. Hai câu nói này (độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả) là nói tổng quát. Không những bản thân chúng ta hiểu rõ, hơn nữa còn phải thường xuyên khuyên bảo người khác, giúp đỡ người khác, đây là tam phước sau cùng: “Khuyến tấn hành giả”.
Nói tóm lại mười một câu này, mười câu đầu là tự lợi, câu cuối cùng là lợi tha. Tự lợi rồi sau đó mới có thể lợi tha, chính mình chưa có thành tựu mà muốn làm lợi ích cho người khác, ở trong kinh Phật thường nói: “Không có chuyện đó”. Cho nên hai câu, tám chữ này (độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả) có ý nghĩa rất sâu, rất rộng, đây là tổng cương của thiện phước, sau đó mới dạy cho chúng ta làm thế nào tu thiện, tu phước, tích công lũy đức trong đời sống hằng ngày.
Được rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ học đến đây thôi.
A Di Đà Phật!
Trích trong:
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 11