Công đức phóng sinh rộng lớn vô biên, không thể tính đếm. Dưới đây là Nghi thức phóng sinh đúng Pháp, đem lại công đức lớn lao.
Thế nào gọi là phóng sinh? Phóng sinh tức là nhìn thấy các loại chúng sinh có mạng sống đang bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại, kinh hoàng lúng túng, mạng sống trong phút giây nguy ngập, liền phát lòng từ bi tìm cách cứu chuộc. Như vậy tức là hành vi giải thoát, phóng thích, cứu lấy mạng sống.
Luận Đại Trí độ dạy rằng: “Trong tất cả các tội ác, tội sát sinh là nặng nhất. Trong tất cả các công đức, không giết hại là công đức lớn nhất.” Tại sao phải phóng sinh? Nói một cách đơn giản, phóng sinh tức là cứu chuộc mạng sống. Chúng ta đã tạo sát nghiệp nặng nề từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay.
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ác nghiệp này có hình tướng thì cho đến cùng tận hư không cũng không dung chứa hết.” Chúng ta ngay trong kiếp này tạo nghiệp giết hại chúng sinh quả thật đã không thể tính đếm được, huống chi là đã tạo trong nhiều đời nhiều kiếp!
Nên biết chân lý: “Có nợ phải trả, có tội phải báo.” Xét lại tự thân mình đã tạo biết bao nghiệp giết hại, chẳng tránh khỏi phải khủng hoảng, xấu hổ, thật không đất dung chứa! Sao có thể không tự mình kịp thời sám hối, cố gắng phóng sinh, hầu mong đền trả nợ nần trong muôn một! Việc phóng sinh có thể trưởng dưỡng tấm lòng từ bi của mình. Nên khởi lòng bi mẫn phóng sinh, xem sinh mạng của loài vật như sinh mạng của chính mình. Được vậy thì sẽ chẳng cuồng vọng, điên đảo nữa; sẽ chẳng tạo nghiệp giết hại nữa; sẽ chẳng thiếu món nợ sát sinh nữa; nên chẳng phải luân hồi thọ báo nữa.
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
Công đức phóng sinh rộng lớn vô biên, không thể tính đếm. Nay xin nói đại lược như sau:
- Không có nạn đao binh, tránh được tai họa chiến tranh tàn sát.
- Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh tật.
- Tránh được thiên tai, dịch họa, không gặp các tai nạn.
- Con cháu đông đúc, đời đời xương thạnh, nối dõi không ngừng.
- Chỗ mong cầu được toại nguyện.
- Công việc làm ăn phát triển, hưng thạnh, gặp nhiều thuận lợi.
- Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ.
- Giải trừ oán hận, các điều ác tiêu diệt, không lo buồn, sầu não.
- Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn.
- Tái sinh về cõi trời, hưởng phước vô cùng. Nếu có tu Tịnh độ thì được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.
Trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện dạy rằng: “Chúng sinh thương yêu nhất là sinh mạng, chư Phật thương yêu nhất là chúng sinh. Cứu được thân mạng chúng sinh thì thành tựu được tâm nguyện của chư Phật.”
Nghi thức phóng sinh
Cúi đầu lạy Đức Như Lai
Mười phương Pháp giới không ai sánh bằng.
Pháp thân thường trụ vĩnh hằng.
Hóa thân vô lượng nhọc nhằn độ sinh.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (3 lạy)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật! (1 lạy)
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật! (1 lạy)
Nam Mô Kim Quang Sư Tử Du Hí Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Đa Bảo Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Ly Bố Úy Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Quảng Bác Thân Như Lai! (1 lạy)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Đương Lai Thế Tôn Di Lặc Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tam Bảo! (1 lạy)
Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn Ngôn: ÔM TU RÊ, TU RÊ, MA HA TU RÊ, TU TU RÊ, XOA HA (3 lần)
Tịnh Tam Nghiệp Chân Ngôn: ÔM SOA BA VA, SUT ĐA XA R’VA, ĐA R’MA, SOA BA VA SUT ĐA HAM (3 lần)
Tốc Tật Thành Tựu Nhất Thế Chân Ngôn: ÔM TA TA TU, TI TI TI TI, TU TU TU TU, VĂC RA XĂC ĐÔ RĂC, HUM VAM HÔC, H’RỊT , HĂC HUM, PHẠT HUM (3 lần)
Phổ Cúng Dường Chân Ngôn: ÔM GA GA NA SAM BA VA, VĂC RA HÔC (3 lần)
Phổ Triệu Thỉnh Chân Ngôn: NAM MÔ BU PU RI, KA RI TA RI, TA THA GA TA DA (3 lần)
Phá Địa Ngục Chân Ngôn: ÔM CHA LA TÊ GIA XOA HA (3 lần)
Giải Oán Kết Chân Ngôn: ÔM SAN TA RA KA TA XOA HA (3 lần)
Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn: ÔM PRA MA NI ĐA NI XOA HA (3 lần)
Kết Đàn Chân Ngôn: ÔM VĂC RA CHĂC C’RA HUM, RĂC HUM, VAM HÔC (3 lần)
Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn: ÔM RAM! (3 lần)
CHÚ ĐẠI BI:
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau độ các chúng sanh,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau lên thuyền bát nhã.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được qua biển khổ,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau được đạo giới định.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
địa ngục liền mau tự tiêu diệt,
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ.
Ngạ quỷ liền được tự no đủ,
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục,
Nếu con hướng về các súc sanh,
súc sanh tự được trí huệ lớn.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! (7 lần)
Nam Mô A Di Đà Phật! (7 lần )
Nam Mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha, a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha.
Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát!
Thần Chú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni
Nam mô bạc già phạt đế.
Tát bà tha đát lan lô chỉ dã.
Bát lạt để tì điệt sắt tra dã.
Bột đà dã. Bạc già phạt đế.
Đát điệt tha.
Úm, bột lâm bột lâm.
Thuật đà dã thuật đà dã.
Tỳ thâu đà dã. Tỳ thâu đà dã.
A táp ma táp ma.
Tam mạn đa. Phạ hoa sát.
Táp bát ra noa yết để ngược yết na.
Tỏa bà bà, tì thú đệ.
A tỳ xiển giả. Đổ mạn.
Tát bà đát da già đa.
Tô yết đa
Bạt ra bạt giả na.
A mật lật đa tỳ sư kế.
Ma ha mẫu đà ra, mạn đa ra bà na.
Úm. A hát ra a hát ra.
A dũ san đà ra ni.
Thu đà dã. Thu đà dã.
Già già na. Xoa phạ bà. Tỳ thú đệ.
Ô sắt nị sa. Tỳ thệ dã tỳ thú đệ.
Tố ha tát ra yết lại thấp nhị. San thù địa đế.
Tát ra bà đát tha yết đa.
A bà lô ky ni.
Tát bà đát đá già đa mạt đế.
Tát đà ra, ba la mật đa.
Ba rị, phú ra ni.
Na ta bồ mật bà la. Địa sắt sỉ đế.
Tát la bà đát đà yết đa da. Hất rị đà da.
Địa sắc sá na.
Đế sắt sỉ đê.
Úm, một điệt lệ, một điệt lệ. Ma ha một điệt lệ.
Bạt triết la ca dã.
Tăng hát đản na tỳ thú đệ.
Tát ra bà yết ma, phạt lạt noa tỳ thú đệ.
Bát lạt đổ rị ca đế, tì rị, tì thú đệ.
Bát lạt để na bà ra đái dã. A dũ thú đệ.
Tam ma da. Địa sắt sỉ na. Địa sắt xỉ đế.
Úm. Mạt nhĩ, mạt nhĩ, ma ha mạt nhĩ.
Á ma ni, á ma ni.
Tì ma ni, tì ma ni, mạ hạ tì ma ni..
Mạt địa mạt đế, ma ha mạt đế.
Đát đạt đa bột đa.
Cô thi tì lê thú đễ.
Tị tốt bố tra. Bột địa tỳ thú đệ.
Úm, hy hy.
Thệ dã thệ dã.
Tị thệ dạ tị thệ dã.
Tam mạt ra tam mạt ra.
Sa phạ ra, sa phạ ra.
Tát la bà bột đà.
Địa sắt sỉ na.
Địa sắc sỉ đa.
Thú đệ thú đệ.
Bạt triết lệ, bạt triết lệ. Ma ha bạt triết lệ.
A bạt triết lệ.
Bạt triết la yết tì.
Thệ da yết tì.
Tì giá gia yết tì.
Bạt triết ra thệ bạt la yết tì.
Bạt triết rô na già đế.
Bạt triết rô na bà đế.
Bạt triết la tam bà phệ.
Bạt triết rô bạt triết rị na.
Bạt triết lam, bạt bà đổ mạ mạ.
Tát rị lam. Tát la phạ. Tát đỏa bà năng.
Tát xá gia. Tì lê, tì thú đệ.
Sất dạ phạ bà đổ mế tát na.
Tát lạt bà yết đế tì lê thú đễ.
Tát lạt bà đát đà yết đa. Sất da mi.
Tam ma ta phạ. Tát diện đô.
Tát bà đát đá già đa.
Tam ma tát phạ sa địa sắt sỉ đế.
Úm! Sất địa da, sất địa dạ.
Bột đề dã, bột đề dã.
Tỳ bồ đề dã, tì bồ đề dạ.
Bồ đà dạ, bồ đà dạ.
Tì bồ đà dạ, tì bồ đà dã.
Mô ca dã, mô ca dã.
Tì mộ ca dã, tì mộ ca dạ.
Thuật đà dạ, thuật đà dã.
Tì thuật đà dã, tì thuật đà dã.
Tam mạn đa đát biệt lệ, mô ca dã.
Tam mạn đà da sa mế biệt rị thú đễ.
Tát la bà đát tha già đa tam ma da hất rị đà da.
Địa sắt sa na, địa sắt sỉ đế.
Úm, mẫu đề lê mẫu đề lê, ma ha mẫu đà ra,.
Mạn đa ra, bát na
Địa sắc sỉ đế.
Xóa ha.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH!
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba- la- mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ – tưởng – hành – thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức. Vô nhãn- nhĩ – tỷ -thiệt- thân -ý, vô sắc- thanh –hương- vị- xúc – pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba- la -mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba- la -mật đa cố, đắc A -nậu –đa- la –Tam- miệu- Tam- bồ- đề. Cố tri Bát nhã Ba- la -mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba-la- mật đa chú, tức thuyết chú viết:
GA TÊ, GATÊ, PA RA GA TÊ, PA RA SĂM GATÊ, BÔ ĐI XOA HA (3 lần)
VĂN PHÁT NGUYỆN PHỔ HIỀN THẬP HẠNH:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (1 lạy)
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tam Bảo! (1 lạy)
Con xin đem tấm lòng thành
Vô biên tha thiết, trời xanh thấu cùng
Dưới chân Từ Phụ bao dung
Phát lên lời nguyện vô cùng vô biên (1 lạy)
Nguyện rằng Chư Phật thiêng liêng
Mười phương quá khứ, hiện tiền, vị lai
Con xin lễ kính các Ngài
Trọn tâm tha thiết, chẳng phai nhạt lòng (1 lạy)
Nguyện con ngữ ý sạch trong
Ngợi ca cùng tột Đức – Công sâu dày
Mười phương Đức Phật xưa nay
Vô biên Trí – Hạnh , lớn thay không cùng. (1 lạy)
Nguyện đem bảo vật cúng dường
Tòa sen, đèn lọng, hoa hương v.v… vô vàn
Con dâng cúng Phật hân hoan
Dù cho thịt nát, xương tan cũng đành
Pháp cúng dường – không gì sánh:
Y theo Chánh Đạo, thực hành thâm sâu.
Trọn nên Phật Quả nhiệm màu
Độ sinh vô lượng, vẹn câu “cúng dường”.(1 lạy)
Nguyện bao lầm lỗi còn vương
Đem ra sám hối , triệt đường si mê
Vô biên tội – chướng nặng nề
Quyết tâm trừ diệt, trăm bề sạch trong. (1 lạy)
Nguyện trong khắp cõi hư không
Thấy nghe công đức, khởi lòng hân hoan
Trên của Phật – Thánh, dưới phàm
Trọn tâm tùy hỉ, vô vàn vô biên. (1 lạy)
Nguyện khi thời khắc thiêng liêng
Thế Tôn thành Đạo, con liền thiết tha
Quỳ dâng muôn vạn thiên hoa
Khẩn xin Phật thuyết bao la Pháp màu. (1 lạy)
Nguyện khi Phật trụ đã lâu
Người toan thị hiện vào sâu Niết Bàn.
Con liền khẩn thiết xin van
Thỉnh Phật trụ thế muôn ngàn lâu xa. (1 lạy)
Nguyện bao Hạnh – Trí mênh mang
Của mười phương Phật, vô vàn kiếp tu
Con xin học tập, cho dù
Nát thân, bỏ mạng, quyết tu cho thành. (1 lạy)
Nguyện khắp tất thảy chúng sanh
Muôn sai vạn khác, quẩn quanh luân hồi
Vô biên kiếp cũng không thôi
Con xin cung phụng, đắp bồi Đạo tâm
Độ tất cả thoát trầm luân
Thành ngôi Chánh Giác, muôn phần an nhiên (1 lạy)
Nguyện bao công đức kể trên
Con đem phước báu vô biên xin dành
Hồi hướng khắp nẻo chúng sanh
Trọn nên Phật Quả, trọn thành Pháp thân. (1 lạy)
Phổ Hiền mười nguyện Thánh nhân
Xin vô lượng kiếp quyết tâm phụng trì.
Hư không cùng tận, có khi
Còn mười nguyện đó chẳng khi nào dừng.
Thân – khẩu – ý nghiệp chẳng ngưng
Nối nhau không hở trong từng phút giây.
Vĩnh viễn chẳng thể lung lay
Xin trên Tam Bảo chứng ngay lòng thành. (1 lạy)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! (1 lạy)
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát! (1 lạy)
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tam Bảo! (1 lạy)
*********************
Dương chi tịnh thủy,
Biến sai tam-thiên,
Tánh không bát-đức lợi nhơn thiên,
Pháp-giới quảng tăng diên,
Diệt tội tiêu khiên,
Hỏa-diệm hóa hồng-liên.
Nam-mô Thanh-Lương-Ðịa Bồ-tát. (3 lần, 1 lạy)
Nam-mô Thường Trụ Thập Phương Phật. (1 lạy )
Nam-mô Thường Trụ Thập Phương Pháp. (1 lạy )
Nam-mô Thường Trụ Thập Phương Tăng. (1 lạy )
KỆ GIẢI NGHIỆP:
Chúng sinh đây có bấy nhiêu
Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn
Các ngươi trước lòng trần tục lắm
Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
Bấy lâu chẳng biết tu trì
Gây bao tội ác lại về mình mang
Sống đọa đầy chết thường đau khổ
Lông, da, sừng có đỡ được đâu
Dù là bay trước, lặn sau
Lưới, dây, tên bắn, lưỡi câu thả mồi
Tát cạn bắt cùng hơi hun độc
Lúc đó dù kêu khóc ai thương
Nằm trên dao thớt là thường
Hồn còn phảng phất nấu rang xoong rồi
Muôn phần chết nay ngươi cầm chắc
May sao nhờ các bậc thiện nhân
Cứu cho ngươi được thoát thân
Ðến đây lại được nhờ ân Pháp mầu.
Vậy ngươi kíp hồi đầu quy Phật
Cùng dốc lòng quy Pháp quy Tăng:
Chúng sanh Quy Y Phật
Chúng sanh Quy Y Pháp
Chúng sanh Quy Y Tăng
Chúng sanh Quy Y Phật không đọa địa ngục
Chúng sanh Quy Y Pháp không đọa ngạ quỷ
Chúng sanh Quy Y Tăng không đọa bàng sanh
Chúng sanh Quy Y Phật rồi
Chúng sanh Quy Y Pháp rồi
Chúng sanh Quy Y Tăng rồi
Quy rồi tội chướng sạch băng
Trí khôn sáng tỏ tưng bừng khắp nơi
Phát tâm tu sau rồi được hưởng
Về Phương Tây sung sướng đời đời
Lên tòa sen hưởng thảnh thơi
Không hề luân chuyển yên vui tháng ngày
Xin đại chúng ra tay cứu khổ
Phát tâm cầu Phật độ chúng sanh
Cùng nhau dốc một lòng thành
Cầu cho thoát khỏi trong vòng trầm luân.
BÀI TÁN LỄ CẦU VÃNG SINH:
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật! (1 lạy)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! (ít nhất 48 câu)
CHÚ VÃNG SINH:
Nam-mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần).
Bổ Khuyết Chân Ngôn: “ÔM HU RU HU RU GIA GIA MU KHÊ XOA HA” (7 lần)
HỒI HƯỚNG:
Con nguyện hồi hướng công đức tụng niệm này đến tất cả chúng sinh đây, nguyện cho chúng sinh đây được tiêu trừ nghiệp chướng, thanh tịnh các phiền não, tăng trưởng Bồ Đề Tâm, thân tâm thường an lạc, mau thoát kiếp súc sinh, mau sinh Tịnh Độ, mau viên thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, quảng độ chúng sinh.
TAM TỰ QUY Y:
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát Vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải.
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại-chúng, nhất thiết vô ngại.
(Nguồn bài viết: Quang Tử)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật _()_
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát _()_