Chánh báo và y báo cõi Tây phương Tịnh độ được hình thành từ sự tư duy nhiếp thủ của đức Phật A Di Đà khi còn là một vị Pháp Tạng Tỳ-kheo.
Như vô số cõi Tịnh độ khác, cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được thiết lập dựa trên 48 lời đại nguyện thâm sâu, chứa chan lòng đại từ bi cùng với năng lực trí tuệ vi diệu, tiếp dẫn chúng sinh về Cực Lạc Tây phương tạo thắng duyên lành tu tập đến ngày viên thành Phật quả.
1. Vì sao đức Phật Thích-ca đặc biệt tán thán cõi Tịnh độ Cực Lạc Tây Phương?
Cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà được chính lời vàng chân xác của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đặc biệt giới thiệu và tán thán vì:
Chúng sinh nơi cõi Ta-bà này phần lớn tạo nhiều ác nghiệp như: Bất kính Sư trưởng, bất hiếu cha mẹ, không tin Tam Bảo, giết người đoạt của, tham dục lẩy lừng, tà kiến đảo điên, khiến đọa sinh vào vô số cảnh giới khổ đau trong ba cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.
Chỉ có cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà mới đáp ứng đầy đủ nhu cầu về thân và tâm của chúng sinh. Vì ở đây tất cả đều được làm bằng bảy báu trang nghiêm: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Lại nữa tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng lá xào xạc cũng phát ra pháp âm vi diệu, thù thắng. Sống trong cảnh giới hoàn toàn vô cấu như thế nên tâm chúng sinh không còn tham lam, sân hận, si mê và thân thể không còn bị ngũ dục (tài sản, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ) chi phối.
Chỉ có đức Phật A Di Đà cùng với hai vị Bồ-tát thượng thủ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là có nhiều nhân duyên đặc biệt với tất cả chúng sinh trong cõi Ta-bà khiến chúng sinh quy hướng, kính tin, phát nguyện cầu sinh Tịnh độ.
48 lời đại nguyện của Phật A Di Đà được lưu xuất từ lòng từ bi bao la và trí tuệ quảng đại nên có thể tiếp dẫn tất cả các hạng chúng sinh vãng sinh Tịnh độ. Ví như lời nguyện thứ 18: “Khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.”
2. Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ
Chánh báo tức là quả báo hiện nơi tự thân. Ví như thân tướng trang nghiêm thù thắng của Phật A-di-đà. Y báo tức là quả báo hiện ngoài tự thân.Ví như hoàn cảnh, quốc độ và tất cả sự vật bao quanh nơi thế giới Cực Lạc.
Chánh báo và y báo cõi Tịnh độ được hình thành từ sự tư duy nhiếp thủ của đức Phật A Di Đà khi còn là một vị Pháp Tạng Tỳ-kheo. Vì nguyện lực muốn thiết lập cảnh giới Tịnh độ để nhiếp hóa chúng sinh mà thỉnh cầu đức Thế Tự Tại Vương Như Lai hiển bày về thắng cảnh ưu việt của 210 cõi Tịnh độ. Sau khi quán sát rõ y báo và chánh báo nơi các cõi, Ngài đã tinh cần tư duy tu tập “tạo nhân quốc độ” trải qua 5 kiếp mới hình thành cõi Cực Lạc trang nghiêm.
Do nhân và quả thù thắng như vậy, nên chúng sinh nào nhất tâm cầu nguyện vãng sinh Tây phương Tịnh độ cũng đều đạt được y báo và chánh báo trang nghiêm như Phật A-di-đà, ví như nước trong chậu hòa vào nước biển, cùng chung một hương vị không khác.
Chánh báo trang nghiêm
Trong Phật thuyết A-di-đà kinh ghi rằng: “…Xá-lợi-phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử đều là bực A-la-hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ-tát chúng cũng đông như thế. Xá-lợi-phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. Xá-lợi-phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sinh vãng sinh vào đó đều là bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sinh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói thôi! Xá-lợi-phất! Chúng sinh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sinh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ…”
Trên chỉ giới thiệu một trong rất nhiều chánh báo thù thắng nơi cõi Tịnh độ, nay nói tóm lược như sau:
Thân tướng trang nghiêm: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sắc như vàng ròng, cùng đồng một thể không có sai khác.
Thọ mạng vô hạn lượng: Người vãng sinh về Cực Lạc sống lâu vô cùng, hoàn toàn tự chủ, tùy theo bản nguyện.
Có đủ sáu phép thần thông: Thấy suốt tất cả (thiên nhãn), nghe suốt tất cả (thiên nhĩ), biết rõ tâm niệm kẻ khác (tha tâm), biết rõ kiếp quá khứ (túc mạng), đi lại tự tại (thần túc), khi đắc quả A-la-hán dứt sạch nghiệp luân hồi (lậu tận).
Tâm trí: Luôn an trụ trong chánh định.
Không còn đọa vào ác đạo: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.
Hóa sinh: Sinh ra từ hoa sen, không do ái dục giữa nam nữ mà thành.
Thân tâm an lạc: Như các vị Tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán.
Không còn có tên bất thiện: Danh từ và sự bất thiện đều không.
Đạo tâm bất thoái: Tâm luôn dũng mãnh tinh tấn thẳng đến đạo Vô thượng chánh giác, không còn thoái chuyển.
Trí tuệ biện tài: Biện tài ứng đối thông suốt không chướng ngại.
Được vô sinh nhẫn: Phá trừ hết ngã chấp và pháp chấp. Lý và trí không hai.
Oai lực tự tại: Như chư Bồ-tát, Thanh văn đầy đủ năng lực, thần thông tự tại.
Thân sáng chói lọi: Hàng Thanh văn thân thì chiếu sáng được một tầm; hàng Bồ-tát thì thân chiếu sáng được từ một trăm do tuần cho đến tam thiên đại thiên thế giới.
Vô số Thanh văn: Đức Thích-ca đã bảo cho Ngài A-nan hay rằng: “Có sức thần như Mục Kiều Liên và dùng sức thần thông ấy trải qua trăm ngàn muôn ức vô số kiếp, cũng không thể biết được số lượng Thanh văn Bồ-tát chứng quả trong đại hội đầu tiên của đức A-di-đà giáo hóa; dù cho có biết được một phần nào mà nếu đem so với số chưa biết được thì cũng không khác nào một giọt nước so với biển cả.”
Vô số bổ xứ Bồ-tát: Bồ-tát sắp thành Phật không thể đếm được.
Y báo trang nghiêm
Phật thuyết A-di-đà kinh lại chép rằng: “…Xá-lợi-phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?Vì chúng sinh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. Xá-lợi-phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc …”
Đây cũng chỉ là một phần y báo nơi cõi Cực Lạc thù thắng, nếu nói rộng ra thì đến muôn ngàn lời, nay tóm lược về phần y báo như sau:
Cõi nước bằng phẳng thanh tịnh: không có bụi dơ, sông ngòi hang hố, núi non gò đống chập chùng.
Mặt đất do bảy báu tạo thành: Dưới đáy đất có đế bằng vàng, kim cang và thất bảo chống đỡ đất lưu ly.
Khí hậu ôn hòa: Khí hậu không lạnh không nóng, mát mẻ quanh năm.
Lưới báu bủa giăng: Vô lượng lưới báu treo các linh báu giăng khắp cõi Phật. Hễ nghe tiếng linh thì tự nhiên sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Sáu thời mưa hoa: Ngày đêm chia sáu thời có gió dịu phảng phất; đồng thời từ trên trời, hoa Mạn-đà-la rơi xuống cùng khắp bờ cõi thơm tho mát dịu.
Sen báu đầy dẫy: Các thứ hoa sen báu mọc lên cùng khắp cả cõi Phật. Mỗi một hoa sen báu lại có trăm ngàn ức cạnh phát ra vô lượng màu sắc.
Hóa Phật thuyết pháp: Từ mỗi hoa sen báu tuôn ra ba mươi sáu trăm ngàn ức hào quang; trong mỗi hào quang hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức đức Phật, với thân vàng sáng chói, tướng tốt trang nghiêm. Mỗi một đức Phật lại phóng ra vô số hào quang chiếu sáng khắp mười phương và nói pháp nhiệm mầu cho mười phương nghe.
Cây đạo tràng của Phật: Cây đạo tràng của đức Phật A-di-đà là do các báu hợp thành. Trên cây treo các chuỗi ngọc, lưới báu bủa giăng hết thảy đều trang nghiêm và tùy ý ứng hiện.
Cây báu phát âm thanh: Vô số cây báu mọc cùng khắp cõi Tịnh độ. Khi một làn gió nhẹ thoảng qua, từ cành, từ lá, từ hoa, từ quả mỗi mỗi đều phát ra năm thứ thanh âm hòa nhã như trăm ngàn điệu nhạc hòa tấu một cách tự nhiên. Nghe tiếng nhạc ấy rồi chúng sinh liền lần lượt chứng nhập giáo pháp sâu xa, tiến lên bậc bất thoái, tiến mãi cho đến khi thành tựu quả Phật.
Muôn vật nghiêm lệ: Hết thảy muôn vật đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng suốt xinh đẹp. Hình sắc đặc biệt và lộng lẫy một cách vi diệu, không thể tả xiết.
Không có ba đường dữ: Không có các khổ nạn của ba cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh
Cung điện trang nghiêm: Hết thảy nhà cửa như giảng đường tịnh xá, cung điện, lầu gác đều tự nhiên thành tựu, đều được xây và trang hoàng từ bảy thứ báu.
Quốc độ thanh tịnh: Quốc độ thanh tịnh trong suốt như một thế giới pha lê, chiếu tỏa khắp mười phương, khiến từ đó có thể trông thấy được vô lượng vô biên vô số thế giới của chư Phật bất khả tư nghì.
Hồ tắm trong thơm: Nước trong các hồ tắm yên lặng trong suốt, bản chất thanh tịnh mùi vị thơm tho như nước cam lồ và có đầy đủ tám tính chất gọi là “bát công đức thủy”. Nếu là hồ hoàng kim thì dưới đáy là cát bạch ngân; nếu là hồ bạch ngân thì dưới đáy là cát vàng; nếu là hồ thủy tinh thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ lưu ly thì dưới đáy là cát thủy tinh; nếu là hồ san hô thì dưới đáy là cát hổ phách; nếu là hồ hổ phách thì dưới đáy là cát san hô; nếu là hồ xa cừ thì dưới đáy là cát lưu ly; nếu là hồ bạch ngọc thì dưới đáy là cát vàng tía; nếu là hồ vàng tía thì dưới đáy là cát bạch ngọc. Các nhóm báu ấy còn thay đổi tùy theo ý người muốn; hoặc do hai thứ báu, hoặc do ba, bốn cho đến bảy thứ báu mà hợp thành.
Nước hồ lên xuống tùy nguyện: Nhân dân ở quốc độ Cực Lạc, một khi bước chân xuống hồ, mực nước lên xuống cao thấp đều tùy theo ý nguyện. Cũng tùy theo ý nguyện mà nước hồ có ấm lạnh một cách tự nhiên. Tắm xong, tinh thần thấy sảng khoái và tẩy trừ hết tâm cấu nhiễm. Mỗi khi bước xuống tắm, bốn phía bờ hồ có tiếng sóng vỗ lao xao như một điệu nhạc, phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tiếng tịch tịnh xa vắng, tiếng vô ngã, tiếng đại từ đại bi, tiếng Ba-la-mật… Những tiếng phát ra như vậy rất xứng hợp với người nghe và khiến người nghe sinh tâm hoan hỷ vô lượng.
Hương xông ngào ngạt: Từ mặt đất lên đến hư không, hết thảy cung điện, lầu gác hồ sen, cây hoa… Cho đến tất cả vạn vật đều xông ướp trong trăm ngàn thứ hương thơm, kết hợp do vô lượng tạp bảo đặc biệt. Hương ấy tỏa khắp mười phương thế giới; Bồ-tát ngửi thấy mùi hương đều dũng mãnh tu theo hạnh Phật.
Thức ăn tinh khiết: Thức ăn gồm các thứ hương hoa vô cùng tinh khiết và thù thắng hơn ở cả cảnh trời. Khi muốn ăn, chén bát thất bảo tự nhiên hiện ra với trăm thức ăn uống đầy đủ. Cách ăn không như ở cảnh giới chúng ta, mà chỉ bằng tác ý và bằng mắt thấy tai nghe, tức thời tự nhiên bảo mãn. Ăn xong, thức ăn tiêu hóa; đến giờ ăn sau, những thức ăn mới lại tự nhiên hiện ra như trước.
Y phục tùy niệm: Y phục của nhân dân tùy niệm tùy hiện, không cần may, cắt, giặt, nhuộm.
Chim biết thuyết pháp: Các thứ chim ở cõi này đều là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Ngài biến hóa ra các thứ chim tạp sắc kỳ diệu như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng Mạng, chim Phù, chim Nhạn… ngày đêm sáu thời, kêu tiếng hòa nhã. Tiếng ấy giảng giải pháp Ngũ căn, Ngũ lực, Bảy phẩm Bồ-đề, Tám pháp chánh đạo… Khiến người nghe đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Lược thuật qua chánh báo và y báo thù thắng của cõi Tịnh độ để thấy được công đức tu hành và hạnh nguyện độ sinh của chư Phật thật không thể nghĩ bàn.
Cõi Tịnh độ với đầy đủ tiện nghi khiến cho chúng sinh ở cõi nước đó không còn lo nghĩ đến sự ăn uống, tài sản… Vì khắp nơi đều là bảy báu, mọi người sống chan hòa cùng chư Bồ-tát, Thanh văn. Toàn cõi đều là pháp âm vi diệu, nghe pháp này khiến chứng ngôi bất thoái vĩnh viễn không còn luân hồi.
Trên đây chỉ dùng ngôn ngữ hạn cuộc thế gian để phô diễn chút nhỏ nhoi công đức bao la của cảnh Tây phương. Chúng sinh không nên dừng lại ở đây, phải nỗ lực tiến tu để chứng nhập cái vô cùng của công đức Phật, như người uống nước nóng lạnh tự biết, không cần phải khổ công tính toán so lường.
Tâm Hướng Phật! Trích: Những điều căn bản về pháp môn Tịnh độ và trợ niệm lúc lâm chung – Tác giả: Thích Tâm Hòa!