Bộ sách Khai Thị là những lời dạy vô cùng quý giá của Ngài Tuyên Hóa nhằm khai thị, giác ngộ cho chúng đệ tử. Dưới đây là nội dung Khai Thị quyển 1.
Khai Thị là bộ sách vô cùng quý giá, là những lời dạy mà Ngài Tuyên Hóa đã dùng hơn 70 năm theo Phật khai thị, giác ngộ cho chúng đệ tử.
Bộ sách Khai Thị có thể Phật tử mở mang trí tuệ, khai quang nhãn lực, tinh thông trí lực biết được đâu là đúng – đâu là sai để tránh, vượt qua cám dỗ trên con đường tu để sớm thành chánh quả. Bộ sách Khai Thị vô cùng dễ đọc, dễ hiểu ngay cả đệ tử mới tu tập cũng dễ dàng áp dụng thực hành.
Sơ Lược về Hòa Thượng Tuyên Hóa
Hòa Thượng Tuyên Hóa họ Bạch, tên thật là An Từ, tự là Ðộ Luân. Ngài quê ở huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang thuộc Ðông Bắc, Trung Hoa, tức là Mãn Châu.
Phụ thân Ngài tên Phú Hải, chuyên làm nghề nông. Mẹ họ Hồ, sinh được tất cả tám người con, năm trai ba gái; và Ngài là út.
Hồ thái phu nhân thọ chay trường, niệm Phật, chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ phu nhân nằm mộng thấy Ðức Phật A-Di-Ðà hiện thân phóng đại quang minh chiếu triệt thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh giấc, phu nhân ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sanh ra Ngài.
Ngài vừa ra đời liền liên thanh khóc suốt ba ngày đêm không dứt. Chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta-Bà nầy vậy.
Ngài cư ngụ tại một thôn quê rất nhỏ bé, thưa thớt nhà cửa. Thế nên, đến năm mười một tuổi Ngài vẫn chưa hề thấy qua người chết. Một hôm, Ngài cùng lũ bạn trong thôn dạo chơi chốn điền dã. Bất chợt Ngài thấy một em bé, miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm bên lề. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ hiểu biết liền nói: “Ðứa bé đã chết rồi!” Song Ngài vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết. Về nhà, Ngài liền hỏi mẹ, bà dạy: “Phàm là người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo khó, bất luận là sĩ, nông, công, thương, hay quan lại, ai ai rốt cuộc cũng phải chết.”
Ngài lại hỏi: “Nếu thật như vậy, có cách gì thoát được chết không?” Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có cách tu Ðạo, minh ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh thì mới liễu đoạn sanh tử, siêu thoát luân hồi, thành Chánh Giác, chứng Vô Sinh.”
Tuy lúc đó Ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài tỉnh ngộ sâu xa, do đó Ngài lập định chủ trương quyết chí xuất gia tu Ðạo.
Khi Ngài mang chuyện xuất gia bàn với mẹ, bà dạy: “Xuất gia là chuyện tốt lắm, nhưng cũng không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, cần phát đại Bồ Ðề tâm thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy, ta hết sức đồng ý, cũng thật là phù hợp với giấc mộng xưa kia vậy. Nay ta đã già, ngày tháng chẳng còn bao lâu, các anh chị con đều đã tự lập. Con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành, lúc đó cũng chẳng muộn.”
Ngài vâng lời cha mẹ, rồi sau đó hằng ngày thường theo mẹ lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạy cha mẹ.
Ngày qua ngày, đông tàn xuân đến, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Phật vậy. Chẳng bao lâu tiếng tăm hiếu thảo đồn khắp bốn phương, khi đó mọi người đều gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ Bạch).
Năm Ngài 19 tuổi thì mẹ Ngài qua đời; bấy giờ Ngài từ giã họ hàng lên chùa lạy Hoà Thượng Thường Trí làm Thầy và quy y, chính thức xuất gia, thọ giới. Sau đó, Ngài về lại nơi mộ phần thân mẫu để thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, Ngài sống trong một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà. Rất nhiều lần Ngài ngồi Thiền rồi nhập Ðịnh, liên tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng.
Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của Ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực như ban ngày. Nhiều người chạy đến mộ, hô hoán: “Nhà Hiếu Tử bị cháy rồi!” Cả trăm người trong làng hè nhau xách gáo, đem xô tới để chữa cháy. Song, khi tới nơi họ chỉ thấy túp lều tranh bình lặng, lửa chẳng cháy và Ngài thì vẫn an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Ðịnh!
Có lần Ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai Ngài sẽ tới Mỹ quốc để độ sinh, rằng ở Tây phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật Pháp và Ngài sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, Ngài mới choàng tỉnh, nhớ lại rằng Ðức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, 1.200 năm về trước. Sau Ðệ Nhị Thế Chiến, Ngài vân du khắp nơi. Cuối cùng, trải hơn ba ngàn dặm, Ngài tới chùa Nam Hoa, bái kiến vị Ðại Thiện Tri Thức của thời bấy giờ là Lão Hòa Thượng Hư Vân. Lão Hòa Thượng lúc ấy đã 109 tuổi; vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa Thượng liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói: “Như thị, như thị!”; và Ngài cũng đáp lại: “Như thị, như thị!”
Bấy giờ, Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị Tổ thứ chín của dòng pháp Quy Ngưỡng.
Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy Ngài ở lại chùa đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật của Chùa Nam Hoa.
Năm 1950, Ngài từ giã chùa, lên đường sang Hương Cảng. Ở đây, Ngài sống tại một sơn động biệt lập, chẳng lai vãng gì đến bụi trần, tục lụy. Chẳng bao lâu, có vô số Tăng-lữ từ Trung Hoa Ðại Lục qua Hương Cảng tỵ nạn, và họ cần sự giúp đỡ của Ngài. Cuối cùng, ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động, lập ra giảng đường và hai ngôi chùa, cùng trợ giúp xây dựng nhiều đạo tràng khác.
Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng, khổ hạnh, tinh tấn tu Ðạo, quên mình vì Phật Pháp. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.
Năm 1962, Ngài đến San Francisco, Mỹ Quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cho cơ duyên hoằng dương Ðạo Pháp chín mùi. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là “Mộ Trung Tăng” (nhà Sư trong phần mộ), hay là Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống). Những Phật tử hiểu biết sự tu hành chân chính của Ngài đều rất cảm động và cung kính ủng hộ, cúng dường Ngài.
Năm 1968, Ngài biết cơ duyên đã đến; Ngài nói: “Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm đó, Ngài chủ trì Pháp Hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp Hội kết thúc, quả nhiên có năm người Mỹ đầu tiên xin xuất gia với Ngài.
Từ đó, Ngài tiếp tục chủ trì nhiều Pháp Hội khác, giảng giải Tâm Kinh, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn v..v… Năm 1971, Ngài giảng bộ kinh tối cao của Ðại Thừa, đó là Kinh Hoa Nghiêm.
Song song với việc giảng Kinh, thuyết Pháp, Ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, Ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp ở Mỹ Quốc. Tại Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ Tùng-lâm, đào tạo Tăng, Ni, học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu hành.
Phật Pháp là Thực Hành, Không Phải Chỉ Nói Suông
Ðạo đức là căn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Ngày đêm như tên bắn, năm tháng như thoi đưa. Sóng trên sông, ngọn sau đẩy ngọn trước; cảnh đẹp mau tàn. Ðời người tuổi trẻ qua nhanh, chẳng mấy chốc sẽ già chết hủ diệt, không lưu lại dấu vết, đủ thấy mọi thứ thật vô thường.
Do mọi thứ vô thường nên mình phải mau tìm nơi quy túc. Quý-vị rất là may mắn, sau khi tìm tòi, truy đuổi, cuối cùng đã có lòng tin Phật. Tin Phật thì mình mới đến được chỗ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; tức cái vui rốt ráo nhất. Do đó mình phải tin Phật. Nhưng tin suông chưa đủ, mình phải y theo Pháp mà tu hành. Nếu tin mà không tu thì cũng như bàn chuyện ăn cơm, hay đếm giùm tiền người, mà mình thì chẳng thấy no, hoặc chẳng giàu thêm. Cho nên người xưa có nói:
Ðạo thị yếu hành,
Bất hành tắc yếu đạo hà dụng?
Ðức thị yếu tu,
Bất tu tắc đức tòng hà lai?
Nghĩa là:
Ðạo phải hành,
Không hành sao gọi là đạo.
Ðức do tu,
Không tu đức sao thành.
Thế nên mình phải “cung hành thực tiễn,” thật sự tu hành. Thường đem hai chữ sinh tử treo giữa đôi mày và hai chữ “đạo đức” đạp dưới chân. Nói ra nghe có vẻ khó hiểu. Tại sao lại đem “đạo đức” đạp dưới chân? Vì đạo đức là gốc làm người, ví như là gốc của cây. Có đạo đức thì mình mới đứng vững, còn ngược lại, không có đạo đức thì mình như cây chẳng có gốc, không sao đứng vững đặng. Mình cần đem đạo đức ra thực hành thì nhân cách mới vững vàng, mọi sự mình làm tự nhiên sẽ thành công. Cho nên: “Ðạo đức nhị tự, thị tố nhân căn bổn.” Tức là đạo đức là căn bản làm người. Sách Luận Ngữ nói: “Quân tử vu bổn, bổn lập nhi đạo sanh.” Tức là bậc quân tử chú trọng đến cái gốc, khi gốc vững thì Ðạo phát sinh. Chăm lo cái gốc thì mới sinh được đạo. Ðó là lời minh huấn của cổ nhân.
Như đã nói lúc nãy, thời gian trôi nhanh như tên bắn mà ta nào hay. Chuyện quá khứ đã qua thì đành vậy, song chuyện tương lai, cần phải lập ra tông chỉ, không thể để trôi qua một cách mê mờ được.
Tông chỉ của Chùa Tây Lạc Viên là đề xướng Pháp-môn Tịnh-độ; chủ trương tinh tấn niệm Phật. Thường lệ mỗi năm vào ngày 19 tháng 6 và ngày 17 tháng 11 âm lịch thì Chùa cử hành Pháp-hội Quán-âm và Thất Di Ðà. Song quý vị không thể chỉ tham gia cho có lệ thôi. Năm nay phải tinh tấn hơn năm trước, lúc nào cũng phải chuyên tâm, trong bảy ngày này, mỗi giờ, mỗi phút đều phải siêng năng niệm danh hiệu Bồ-tát mà không biết mỏi mệt.
Khi niệm Bồ-tát, mình chớ mong Bồ-tát niệm mình. Tại sao vậy? Vì trong thời gian đả thất, nếu mang danh là tham gia đả thất mà mình không siêng năng niệm hồng danh, lòng lại đầy tạp niệm thì chỉ làm cho đức Bồ-tát đại từ đại bi sẽ thấy tội nghiệp: Rằng mình đã không thành tâm đả thất, rằng mình thật đáng thương xót. Cho nên đại chúng phải khẩn thiết thành tâm mà niệm và phát lòng từ bi hỷ xả. Ðược như vậy tôi khẳng định rằng Bồ-tát chắc chắn sẽ gia hộ cho quý-vị.
Xưa nay, Tây Lạc Viên chưa từng phát thiệp mời đả thất, mà là đại chúng tự nguyện phát tâm đến dự. Tinh thần tự động phát tâm như vậy rất tốt, đáng được tuyên dương. Song mình đừng để sự chân thành nầy bị lãng phí, mà phải phát nguyện niệm cho tới khi “thủy lạc, thạch xuất” nghĩa là nước cạn, đá lộ ra. Niệm đến lúc Bồ-tát hiện thân thuyết Pháp. Vậy mới không uổng công tham gia đả thất.
Hôm nay là ngày đầu tiên của Pháp-hội. Tôi chúc quý vị năm nay sẽ gặt hái được nhiều thành quả. Ngược lại, tôi sẽ thanh toán món nợ nầy với quý-vị. Nếu món nợ này tính không xong, thì đừng hối hận! Thôi được rồi, tôi không nói đùa với quý-vị nữa, hãy niệm nhiều danh hiệu Bồ-tát là hơn!
Giảng ngày 13 tháng 6 năm 1958,
nhân dịp lể Quán Âm Thất
Tây Lạc Viên, Hồng Kông
Mời quý bạn đọc trọn bộ Khai Thị Quyển 1 – Hòa Thượng Tuyên Hóa tại file PDF dưới đây.
[pvfw-embed viewer_id=”4438″ width=”100%” height=”600″ iframe_title=”Tâm Hướng Phật” zoom=”auto” pagemode=”none”]