Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Phẩm vị cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà

Ba bậc và chín phẩm tu chứng ở cõi Tây phương Tịnh độ của đức Phật A Di Đà có khác nhau là do công phu tu tập sâu cạn không đồng.

Đối với pháp môn Tịnh độ, bất cứ ai nhất tâm chuyên niệm hồng danh đức Phật A Di Đà, thiết tha cầu nguyện vãng sinh đều được như ý nguyện, không phân biệt hạng người cao thấp, sang hèn, trí thức hay ngu dốt.

Bởi đây, ngoài sự nỗ lực tu hành của tự thân, người niệm Phật vẫn luôn được tha lực của chư Phật, chư Bồ-tát và Thánh chúng gia trì tiếp độ. Tha lực ấy biến khắp trong 48 lời đại nguyện cứu độ chúng sinh, trừ nguyện lực 18, 19 và 20 có sự liên đới trách nhiệm giữa tự lực của chúng sinh và tha lực của đức Phật, những lời nguyện còn lại hoàn toàn dựa vào tha lực.

Như lời nguyện thứ 31: “Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh Giác.”

Tuy tha lực của chư Phật đối với chúng sinh không có phân biệt nhưng tùy vào khả năng lãnh hội và dụng công tu hành mà có chia ra ba bậc và chín phẩm khác nhau.

1. Ba bậc và chín phẩm vãng sinh

Theo kinh Đại Bổn nói khái lược có ba, kinh Quán Vô Lượng Thọ chi tiết chia làm chín. Tuy số lượng có khác nhau nhưng ý nghĩa vẫn không khác, nay tóm tắt trình bày như sau:

a. Bậc thượng căn và ba phẩm thượng

Hạng thượng căn là những chúng sinh xuất gia ly dục thanh tịnh, nhờ đọc tụng Đại thừa, hiểu sâu chân lý tuyệt đối, rộng tu các công đức. Tùy vào khả năng tu chứng chia ra làm ba phẩm: Thượng phẩm Thượng sinh, Thượng phẩm Trung sinh và Thượng phẩm Hạ sinh.

b. Bậc trung căn và ba phẩm trung

Hạng trung căn là những chúng sinh phụng trì trai giới, hồi hướng công đức, hiếu dưỡng cha mẹ, tu các nhân lành ở đời, chuyên niệm danh hiệu Phật. Tùy vào khả năng tu chứng chia ra làm ba phẩm: Trung phẩm Thượng sinh, Trung phẩm Trung sinh và Trung phẩm Hạ sinh.

c. Bậc hạ căn và ba phẩm hạ

Hạng hạ căn là những chúng sinh biết sám hối tội lỗi sau khi đã lỡ lầm, biết tinh tấn tu theo phép thập niệm. Tùy theo khả năng tu chứng chia ra làm ba phẩm: Hạ phẩm Thượng sinh, Hạ phẩm Trung sinh và Hạ phẩm Hạ sinh.

Điểm chung của cả ba hạng cùng lấy sự phát Bồ-đề tâm làm động cơ căn bản tu hành.

Phẩm vị cõi Tịnh độ của đức Phật A Di Đà

2. Nhân quả tương ứng với chín phẩm vị cõi Tịnh độ

Phẩm vị tu chứng cũng được thể hiện rõ ràng theo quy luật nhân quả. Nay theo kinh Quán Vô Lượng Thọ lược thuật như sau:

a. Ba phẩm bậc thượng

Thượng phẩm thượng sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Vì lòng từ không sát sinh hại vật, nghiêm trì các giới hạnh, phát Bồ-đề tâm, siêng đọc tụng kinh điển Đại thừa, tưởng niệm 6 phép tu hành (tưởng niệm Phật, tưởng niệm Pháp, tưởng niệm Tăng, tưởng niệm bố thí, tưởng niệm giới hạnh, tưởng niệm phước đức) hồi hướng công đức, phát nguyện cầu sinh Tịnh độ. Tròn đầy các công đức ấy rồi từ 1 ngày đến 7 ngày sẽ được vãng sinh.

Trạng huống lúc lâm chung: Đức Phật A Di Đà, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí cùng các đấng hóa Phật và Thánh chúng, tay nâng đài kim cương đến trước hành giả. Phật và Bồ-tát đều phóng hào quang chiếu sáng khắp thân hình hành giả, đưa tay tiếp dẫn tán thán công đức và khuyến khích tinh tấn. Hành giả hoan hỷ bước lên đài kim cương, tùy hành theo Phật và Thánh chúng. Trong khoảnh khắc, vãng sinh Cực Lạc.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Sau khi sinh về cõi Tịnh độ rồi, thấy được rừng cây ao báu, khắp nơi Phật và Bồ-tát, sắc tướng trang nghiêm hiện ra diễn thuyết pháp mầu. Nghe xong, liền ngộ vô sinh pháp nhẫn. Trong chốc lát, dạo khắp mười phương, phụng sự hằng sa chư Phật. Theo thứ lớp được thọ ký, chứng đặng vô lượng pháp môn tổng trì rồi trở về quốc độ mình tùy nguyện hóa độ chúng sinh.

Thượng phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Tuy chưa thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa, chưa hiểu rõ thâm nghĩa, nhưng đối với chân lý tuyệt đối, lòng không kinh động. Đã thâm tín nhân quả, không hủy báng Đại thừa, đem công đức ấy hồi hướng cầu sinh Cực Lạc.

Trạng huống lúc lâm chung: Đức Phật A Di Đà và toàn thể Thánh chúng, tay nâng đài vàng đến trước hành giả, tỏ lời tán thán công đức khuyên tu học lý đệ nhất nghĩa của Đại thừa. Hành giả ngồi lên đài vàng chắp tay tán Phật, trong khoảnh khắc liền sinh Tịnh độ.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Ở trên đài vàng như hoa sen lớn một đêm hoa nở để lộ ra một thân tướng sắc vàng. Hành giả nghe các âm thanh thuần nói pháp đệ nhất nghĩa rất sâu xa. Trải qua bảy ngày, không thoái chuyển Bồ-đề tâm, liền sau đó bay đi khắp mười phương, lễ bái chư Phật, tu các pháp tam muội. Qua một kiếp, chứng được vô sinh pháp nhẫn và được thọ ký thành Phật.

Thượng phẩm hạ sinh Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Tin nhân quả, không hủy báng Đại thừa. Có phát đạo tâm vô thượng, đem công đức ấy hồi hướng cầu sinh Tịnh độ.

Trạng huống lúc lâm chung: Thấy đức Phật A-di-đà, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí cùng 500 hóa Phật đến rước, đồng thanh tán rằng: “Pháp tử! Ngươi đã phát đạo tâm vô thượng nên nay chúng ta đến rước ngươi.” Hành giả thấy mình ngồi trên đài hoa sen vàng. Ngồi xong, hoa búp lại, theo Phật và Bồ-tát vãng sinh trong ao sen thất bảo.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Ngồi trong hoa sen được một ngày một đêm thì sen nở. Sau 7 ngày mới thấy tướng tốt của Phật nhưng chưa rõ lắm. Sau 21 ngày, mắt mới thấy tỏ tường đồng thời tai cũng nghe tiếng thuyết pháp. Rồi cũng chu du khắp mười phương để nghe chư Phật nói các pháp nhiệm mầu. Trải qua 3 tiểu kiếp, chứng được bách pháp minh môn an trú ở địa vị Hoan hỷ (tức sơ địa Bồ-tát).

b. Ba phẩm bậc trung

Trung phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Thọ trì ngũ giới, tu bát quan trai giới, giới đức thanh tịnh, không tạo nghiệp ngũ nghịch, không phạm các lỗi lầm, đem các công đức ấy nguyện vãng sinh Cực Lạc.

Trạng huống lúc lâm chung: Khi gần lâm chung, thấy đức Phật A-di-đà cùng Thánh chúng phóng hào quang sắc vàng đến trước mặt hành giả. Tai nghe Phật thuyết bốn chân lý: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã và tán thán hạnh xuất gia. Hành giả rất hoan hỷ, ngồi trên hoa sen chắp tay lễ Phật, trong chốc lát liền vãng sinh.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Hoa sen liền nở và liền nghe thuyết pháp tán thán 4 chân đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chứng quả A-la-hán, có đủ Tam minh, Lục thông và Tám môn giải thoát đầy đủ.

Trung phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Hoặc đã từng tu giới bát quán trai, hoặc đã từng thọ giới Sa-di, hoặc đã từng thọ giới cụ túc, mỗi công hạnh trong một ngày một đêm với đầy đủ oai nghi. Đem công đức ấy hồi hướng, cầu nguyện vãng sinh Cực Lạc.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, thấy đức Phật A-di-đà phóng hào quang sắc vàng, tay nâng đài sen thất bảo, cùng với Thánh chúng đến trước mắt hành giả, tán thán rằng: “Thiện nam tử! Vì nhà ngươi tùy thuận theo lời Phật dạy nên ta đến rước ngươi.” Hành giả ngồi lên hoa sen. Hoa sen búp lại rồi sinh về Cực Lạc.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Ở trong hồ thất bảo bảy ngày, hoa sen mới nở. Mở mắt chắp tay tán thán đức Phật, nghe pháp hoan hỷ rồi chứng được quả Tu-đà-hoàn. Qua nửa kiếp liền chứng quả A-la-hán.

Trung phẩm hạ sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Hiếu dưỡng cha mẹ, làm các việc nhân từ ở đời.

Trạng huống lúc lâm chung: Khi sắp lâm chung, được gặp Thiện tri thức, được nghe các việc an vui của thế giới đức Phật A-di-đà và được nghe 48 lời đại nguyện của Ngài Pháp Tạng Tỳ-kheo. Nghe xong rồi thì mạng chung. Trong chốc lát, liền vãng sinh Cực Lạc.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Trải qua 7 ngày, gặp đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, chứng quả Tu-đà-hoàn. Qua một tiểu kiếp, chứng quả A-la-hán.

c. Ba phẩm bậc hạ

Hạ phẩm thượng sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Tuy không phỉ báng kinh điển Đại thừa, nhưng gây rất nhiều tội lỗi, làm nhiều điều ác ngu si không biết tự hổ.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, may mắn được gặp bậc đại Thiện tri thức nói cho nghe danh tự và đề mục 12 bộ kinh Đại thừa. Nhờ nghe tên 12 bộ kinh, trừ diệt được ác nghiệp nặng nề. Theo lời chỉ bảo của vị đại Thiện tri thức, chắp tay niệm danh hiệu Phật. Nhờ sự xưng danh ấy, trừ diệt được nhiều kiếp tội lỗi trong đường sinh tử luân hồi. Bấy giờ hóa Phật, Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến trước người gần chết, tán thán rằng: “Thiện nam tử! Nhà ngươi nhờ có xưng danh hiệu chư Phật, tội lỗi được tiêu trừ, nên ta đến rước ngươi.” Thấy nghe xong, sinh lòng hoan hỷ, tức thời mạng chung. Liền ngồi hoa sen theo Phật sinh về hồ thất bảo.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Trải qua 49 ngày, hoa sen mới nở. Trong lúc hoa đang nở, đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí phóng hào quang, đứng ở trước mặt, nói cho nghe giáo lý thậm thâm của 12 bộ kinh. Nghe rồi tín hiểu phát lòng vô thượng. Trải qua 10 tiểu kiếp, thông hiểu đầy đủ các pháp và thể chứng quả Sơ địa Bồ-tát.

Hạ phẩm trung sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Nghiệp chướng nặng nề. Hủy phạm ngũ giới, bát giới hay cụ túc giới. Ăn cắp vật dụng của thường trú, của hiện tiền Tăng. Thuyết pháp không thanh tịnh, không biết hổ với mình thẹn với người. Tạo các tội như đã kể trên, đáng lẽ phải đọa địa ngục.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, tướng địa ngục hiện bày trước mắt. May mắn gặp được Thiện tri thức nói cho nghe oai đức quang minh, thần lực quảng đại của đức Phật A-di-đà và tán thán công năng của Ngũ hương là: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương. Nghe xong liền tiêu trừ được tội nặng trong nhiều kiếp sinh tử, lửa dữ địa ngục liền chuyển hóa thành gió mát. Liền đó có mưa hoa rải rác, trên hoa có Phật và Bồ-tát hóa hiện ra để tiếp dẫn. Trong chốc lác, liền được vãng sinh vào hồ sen thất bảo.

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Trải qua sáu kiếp, sen nở, đức Quán Thế Âm, đức Đại Thế Chí dùng pháp âm an ủi và nói cho nghe nghĩa lý sâu xa của kinh điển Đại thừa, nghe xong liền phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Hạ phẩm hạ sinh

Nhân tạo tác lúc sinh tiền: Làm các nghiệp bất thiện, gây đủ mọi tội lỗi như phạm tội ngũ nghịch, thập ác. Đã gây các nghiệp ác ấy là phải đọa địa ngục trải qua nhiều kiếp để chịu mọi khổ não.

Trạng huống lúc lâm chung: Lúc gần lâm chung, may gặp được Thiện tri thức nói cho nghe pháp mầu và bảo niệm danh hiệu Phật. Kẻ kia bị khổ não bức bách không thể niệm được. Thiện hữu thương xót khuyến khích và nhất tâm hộ niệm. Tiếng niệm Phật liên tục bất tuyệt, khiến kẻ kia có thể họa theo. Nếu họa niệm theo đủ 10 lần “Nam mô A-di-đà Phật” tức thời nhờ niệm lực ấy mà tội lỗi trong nhiều kiếp được tiêu tan. Lúc mạng chung liền thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời hiện ra trước mắt. Trong khoảnh khắc liền vãng sinh thế giới Cực Lạc

Quả chứng đắc khi vãng sinh: Nằm trong hoa sen đủ 12 đại kiếp, sen mới nở đức Quán Thế Âm và đức Đại Thế Chí nói cho nghe thật tướng của các pháp và dạy cho phép diệt trừ tội chướng. Nghe xong, sinh tâm hoan hỷ, phát tâm vô thượng Bồ-đề.

Ba bậc và chín phẩm tu chứng ở cõi Tịnh độ có khác nhau là do công phu tu tập sâu cạn không đồng. Tuy nhiên, một khi đã vãng sinh về ao thất bảo, hóa sinh trong hoa sen hành giả sẽ không còn sa vào ác đạo, dự ngôi bất thoái, an vui vĩnh viễn cho đến ngày viên thành Phật quả. Nói rõ phẩm vị tu hành để chúng sinh từ nơi đây nhận biết nhân tạo tác hiện thời và quả vị chứng đắc trong tương lai. Người niệm Phật rất nên lưu tâm!

Tâm Hướng Phật! Trích: Những điều căn bản về pháp môn Tịnh độ và trợ niệm lúc lâm chung – Tác giả: Thích Tâm Hòa!

Bài viết cùng chuyên mục

Vì lợi ích tất cả chúng sinh mà tu pháp lành

Định Tuệ

Việc niệm Phật cần đặt lên hàng đầu, đừng chạy theo thị phi

Định Tuệ

Phản bổn hoàn nguyên trong Phật giáo thường nói là gì?

Định Tuệ

Nội dung và ý nghĩa Thần chú Như Ý Bảo Luân Vương đà la ni

Định Tuệ

Trong tất cả việc tốt thì giúp đỡ chúng sanh giác ngộ là việc tốt nhất

Định Tuệ

Chữ Tức trong đạo Phật

Định Tuệ

Lục căn, Lục trần và Lục thức trong Phật giáo là gì?

Định Tuệ

Trò chơi điện tử chính là thứ dẫn bạn xuống địa ngục

Định Tuệ

Người nhất tâm niệm A Di Đà Phật là người có đại phước báu

Định Tuệ

Viết Bình Luận