Tâm Hướng Phật
Lời Phật Dạy

Kinh Kim Quang Minh Quyển 1: Phẩm Thọ Lượng của Như Lai

Kinh Kim Quang Minh hay Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, Ánh Sáng Hoàng Kim. Dưới đây là nội dung Phẩm Thọ Lượng của Như Lai.

Ở thành Vương Xá có đại bồ-tát tên là Diệu Tràng đã từng phụng sự, cung kính cúng dường, trồng các cội lành từ nơi vô lượng câu-chi[58] do-tha[59] trăm ngàn Đức Phật. Bồ-tát an trú một mình nơi vắng và suy nghĩ rằng: “Vì sao thọ mạng của đức Thích-ca ngắn ngủi như thế, chỉ tám mươi năm? Ngài đã nói rằng: có hai nguyên nhân mà được trường thọ là không sát sanh và thường bố thí thức ăn thức uống, mà đức Thích-ca từ trong vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số đại kiếp[60] ở đời quá khứ không hại sanh mạng, thực hành mười thiện[61], ban phát thức ăn thức uống cho các chúng sanh đói khát. Thậm chí ban cho chúng sanh máu thịt, xương tủy của mình, mong họ no đủ”.

Khi bồ-tát nghĩ về Phật như thế, nhờ oai lực Phật, ngôi thất bỗng nhiên rộng rãi thoáng mát, sạch sẽ trang nghiêm; lưu li Đế thanh[62], các báu vật khác, tơ lụa nhiều màu trang hoàng rực rỡ, giống như Tịnh độ của các Đức Phật. Lại có hương thơm tuyệt diệu hơn cả hương thơm cõi trời lan tỏa khắp thất. Bốn phía đều có tòa sư tử[63] quí do bốn vật báu kết hợp tạo thành, lại được phủ bằng vải báu thanh tịnh, có hoa sen đẹp, trân bảo trang trí, tương xứng với thân Đức Phật Như Lai tự nhiên xuất hiện. Trên hoa sen có bốn Đức Phật là Bất Động Như Lai ngự ở phương đông, Bảo Tướng Như Lai ngự tại phương nam, Vô Lượng Thọ Phật ngự ở phương tây, Thiên Cổ Âm Phật ngự ở phương bắc. Bốn đức Như Lai đều ngồi kết-già trên tòa của mình, phóng luồng ánh sáng rực rỡ chiếu soi khắp thành Xá-vệ, đến cả tam thiên đại thiên thế giới[64] và hằng hà sa cõi Phật mười phương; lại có hoa trời tươi đẹp tuôn khắp, nhạc trời reo vang.

Bấy giờ chúng sanh ở cõi Diêm-phù[65] và cả tam thiên đại thiên thế giới, nhờ oai lực Phật, nên đều nhận được niềm vui tuyệt diệu, không còn ai phải chịu sự thiếu thốn. Trong đó những ai thiếu khuyết chi phần thì lại đầy đủ, người mù được sáng, người điếc tai thông, người câm nói được, người ngu trí tỏ, người điên tâm an, người thiếu áo quần thì có áo quần, người kém hèn lại được kính trọng, thân thể hôi dơ trở lại sạch sẽ. Những việc lợi ích chưa từng có được ở thế gian này lần lượt xuất hiện đầy đủ không thiếu.

Bồ-tát Diệu Tràng thấy bốn Đức Phật và việc hiếm có, vô cùng vui vẻ chiêm ngưỡng tôn dung tuyệt mĩ của Phật. Bồ-tát lại nghĩ Thích-ca Như Lai vô lượng công đức, không phải nghi ngờ, chỉ vì thọ mạng của Ngài quá ngắn nên lòng nghi rằng: “Tại sao công đức của Phật vô lượng, mà thọ mạng Ngài lại quá ngắn ngủi, chỉ tám mươi năm?”.

Bốn đức Như Lai bảo Diệu Tràng rằng: “Hiền giả[66] Diệu Tràng! Ông chẳng nên nghĩ và cho thọ mạng Như Lai ngắn ngủi. Vì sao như thế? Vì chẳng một ai trong cõi trời người, Phạm thiên-ma vương[67], sa-môn[68], Phạm chí[69], phi nhân[70] vân vân mà tính biết được thọ mạng Như Lai, chỉ trừ bậc Vô Thượng Chánh Biến Tri[71]”.

Bốn đức Như Lai sắp nói thọ lượng của Phật Thích-ca. Do oai lực Phật, nên các vị trời cõi Dục, cõi Sắc, các vị long vương, thần càn-thát-bà, thần a-tu-la, loài yết-lộ-trà, loài khẩn-na-la, ma-hô-lạc-già, cùng với vô lượng trăm ngàn vạn ức do-tha bồ-tát đều nhóm họp tại ngôi thất tịnh diệu của ngài Diệu Tràng. Bấy giờ bốn đức Như Lai ở trước đại chúng dùng kệ trình bày thọ lượng của đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai.

Có thể tính biết được
Số giọt nước biển lớn
Nhưng sẽ không thể nào
Biết thọ lượng Thích-ca.
Dù biết số hạt cát
Từ Diệu Cao[72] phân ra
Nhưng không thể tính biết
Thọ lượng của Thích-ca.
Có thể tính biết được
Số hạt bụi đại địa
Nhưng không thể tính biết
Thọ lượng của Thích-ca.
Giả sử lường biết được
Giới hạn của hư không
Nhưng không thể tính biết
Thọ lượng của Thích-ca.
Nếu người sống ức kiếp
Dốc sức hằng tính toán
Cũng không thể biết được
Thọ lượng của Thế Tôn[73].
Do không hại sinh mạng
Và bố thí ẩm thực
Cho nên đức Thích-ca
Được thọ mạng dài lâu.
Do đó khó tính biết
Thọ mạng bậc Đại Giác[74]
Thọ lượng của Như Lai
Như kiếp số vô biên.
Diệu Tràng, ông nên biết!
Chớ khởi tâm nghi hoặc
Như Lai thọ vô lượng
Không ai tính biết được.

Bồ-tát Diệu Tràng nghe bốn Đức Phật nói về thọ lượng của đức Thích-ca, liền bạch Phật rằng: “Như thế tại sao Như Lai thị hiện thọ mạng ngắn ngủi?”. Bốn Đức Phật dạy: “Này thiện nam tử[75]! Thích-ca Mâu-ni xuất hiện thế gian vào thời năm trược, thọ mạng con người chỉ được trăm năm, thiên tư kém cỏi, căn lành nhẹ mỏng, không có lòng tin, khởi kiến chấp ngã[76], kiến chấp về nhân[77], kiến chấp chúng sanh[78], kiến chấp thọ giả[79]; nuôi dưỡng tà kiến[80], ngã-ngã sở kiến[81], đoạn kiến[82] thường kiến[83]…Vì muốn giúp cho những chúng sanh này và các ngoại đạo phát sanh chánh kiến[84], mau chóng thành tựu Vô thượng bồ-đề, cho nên Thích-ca Như Lai thị hiện thọ mạng ngắn ngủi. Này Thiện nam tử! Nhưng đức Như Lai muốn các chúng sanh thấy Phật niết-bàn, sanh khởi ý niệm khó được gặp Phật xuất hiện thế gian, ý niệm buồn khổ…, phải chóng thọ trì, đọc tụng thông thạo, giảng nói cho người những kinh giáo mà Như Lai đã dạy, không sinh hủy báng. Vì thế Như Lai thị hiện thọ mạng ngắn ngủi như thế. Còn nếu chúng sanh thấy đức Như Lai không vào niết-bàn, thì chẳng cung kính, chẳng có ý niệm khó gặp được Phật xuất hiện thế gian, không chịu thọ trì, đọc tụng thông thạo, giảng nói cho người nghe những kinh điển Như Lai đã dạy. Vì mãi gặp Phật thì không khởi tâm cung kính tôn trọng.

Này Thiện nam tử! Như có người thấy cha mẹ giàu sang, của cải vô số, thì sẽ không có ý nghĩ khó được số tài sản này, mà xem là thường. Các chúng sanh kia cũng lại như vậy, thấy đức Như Lai không vào niết-bàn, thì sẽ không sanh ý tưởng khó gặp, vì thường thấy vậy! Như có người thấy cha mẹ nghèo khổ, không có tài sản, người ấy đến nhà vương gia quan lớn, thấy những kho tàng chứa đầy trân bảo, liền sanh ý tưởng cho là khó được. Bấy giờ người ấy tìm mọi phương cách, siêng năng cần mẫn, tìm cầu cho được của cải như thế, hầu thoát đói nghèo, cuộc sống an vui. Các chúng sanh kia cũng lại như vậy, nếu thấy Như Lai vào niết-bàn rồi, sẽ sanh ý tưởng cho là khó gặp, cho đến buồn khổ mà suy nghĩ rằng: “Trải vô lượng kiếp, Như Lai mới hiện ở thế gian này, như hoa ưu-đàm đúng lúc mới hiện”. Các chúng sanh kia, đã sanh ý niệm khó gặp Như Lai, nên khi gặp được, tâm liền kính tin, nghe thuyết chánh pháp liền cho thật ngữ, thọ trì tất cả mà không hủy báng. Vì nhân duyên ấy, cho nên Thế Tôn không thể trụ lâu, mà chóng niết-bàn. Các đức Như Lai dùng các phương tiện khéo léo như thế để giúp chúng sanh thành tựu bồ-đề”.

Bốn Phật nói xong, bỗng nhiên biến mất. Bấy giờ Diệu Tràng cùng với vô lượng trăm ngàn bồ-tát, vô lượng vạn ức do-tha trăm ngàn chúng sanh tụ tập tại non Linh Thứu, trụ xứ của đức Thích-ca Như Lai, lễ chân Ngài rồi đứng về một phía; bồ-tát Diệu Tràng trình bày cho Phật biết những việc trên. Lúc ấy bốn đức Như Lai cũng vừa đến ngọn Linh Thứu, mỗi vị tùy theo phương vị của mình mà ngồi vào tòa. Mỗi vị đều bảo bồ-tát thị giả: “Các ông hãy đến trước Phật Thích-ca Mâu-ni chuyển lời của ta thăm hỏi: ‘Ngài hẳn không bệnh, không có nhọc mệt, đi đứng nhẹ nhàng, thật an lạc chứ?’. Lại nói: ‘Quí thay, quí thay! Thích-ca Như Lai! Nay Ngài giảng nói kinh Kim quang minh, pháp yếu sâu xa của các Như Lai, để làm lợi ích cho khắp chúng sanh, dứt trừ đói khát, khiến được an lạc. Chúng tôi cũng sẽ tùy hỉ việc này’ ”.

Các vị bồ-tát thị giả đến trước Thích-ca Mâu-ni, đảnh lễ chân Ngài, đứng về một phía. Tất cả đồng thưa: “Đấng Thiên Nhân Sư[85]! Thầy của chúng con thăm hỏi Như Lai rất nhiều, hỏi Ngài không bệnh, hẳn không nhọc mệt, đi đứng nhẹ nhàng, được an lạc chứ?”. Các Ngài lại nói: “Quí thay, quí thay! Thích-ca Như Lai! Nay Ngài giảng nói kinh Kim quang minh, pháp yếu sâu xa của các Như Lai, để làm lợi ích cho khắp chúng sanh, dứt trừ đói khát, khiến họ an lạc”. Thích-ca Mâu-ni Ứng Chánh Đẳng Giác[86] bảo các bồ-tát: “Hay thay, hay thay! Bốn đức Như Lai vì sự lợi ích và niềm an lạc của các chúng sanh mà lại thỉnh ta tuyên dương chánh pháp”. Thế là Thích-ca Như Lai nói kệ:

Ta thường tại Linh Sơn
Giảng thuyết kinh báu này
Vì thành tựu chúng sanh
Nên thị hiện niết-bàn.
Phàm phu khởi tà kiến
Không tin lời Ta nói
Vì giúp họ thành tựu
Nên thị hiện niết-bàn.

Bấy giờ trong hội có bà-la-môn[87] họ Kiều-trần-như, tên là Pháp Sư Thọ Kí cùng với vô lượng trăm ngàn Phạm chí, sau khi cúng dường Đức Phật Thế Tôn, nghe Ngài nói rằng sẽ vào niết-bàn, thì đều khóc than. Tất cả đồng lễ chân Phật rồi thưa:

Bạch đức Thế Tôn! Nếu thật Như Lai có lòng từ bi, làm điều lợi ích cho mọi chúng sanh, giúp họ an lạc giống như cha mẹ, làm nơi nương tựa cho cả thế gian, như trăng tròn sáng, dùng đại trí huệ chiếu soi cùng khắp, như mặt trời mọc, bình đẳng thương yêu tất cả chúng sanh như La-hầu-la[88], thì cúi xin Ngài cho con ước nguyện!

Đức Phật Thế Tôn im lặng chờ đợi. Do oai lực Phật, nên trong chúng hội có một đồng tử thuộc giòng Lê-xa[89], tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến nói với bà-la-môn Kiều-trần-như:

Đại Bà-la-môn! Ông muốn xin Phật một ước nguyện gì, tôi đây sẽ cho!

Bà-la-môn đáp: Kính thưa nhân giả[90]! Tôi muốn cúng dường Thế Tôn vô thượng và cũng muốn thỉnh một viên xá-lợi[91] chỉ bằng hạt cải của đức Như Lai. Vì sao như thế? Vì tôi từng nghe nếu ai có được xá-lợi Như lai, dù bằng hạt cải, cung kính cúng dường thì sẽ sanh lên cõi trời Đao-lợi[92] làm Đế Thích thiên.

Đồng tử liền nói: Nếu muốn sanh lên cõi Ba Mươi Ba, hưởng phước báo tốt thì nên lắng nghe kinh Kim quang minh. Kinh này bậc nhất trong các bộ kinh, rất khó thấu hiểu, rất khó thâm nhập, Thanh văn-Độc giác[93] không thể biết được. Kinh này thật có năng lực sanh ra vô lượng vô biên quả báo phước đức, cho đến thành tựu Vô thượng bồ-đề. Tôi sẽ lược nói để ngài hiểu rõ.

Bà-la-môn thưa: Quí thay, quí thay! Kính thưa nhân giả! Kinh Kim quang minh vô cùng sâu xa, cao siêu khó hiểu, rất khó thể nhập, Thanh văn-Độc giác còn không thể biết, huống gì chúng tôi là hạng phàm phu, trí huệ kém cỏi. Cho nên hôm nay chúng tôi nguyện được một viên xá-lợi chỉ bằng hạt cải, thỉnh về quê hương, đặt vào hộp quí, chí thành cúng dường. Sau khi mạng chung, được làm Đế Thích, luôn được an vui. Ước nguyện chúng tôi chỉ có như thế, vì sao hôm nay, ngài không thể xin Như Lai ban cho.

Đồng tử Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến nói kệ:

Trên sông Hằng chảy xiết
Có thể sanh hoa sen,
Chim vàng biến thành trắng
Chim đỏ trở thành đen
Giả sử cây chiêm-bặc[94]
Sanh ra quả đa-la[95]
Trên cành khát-thọ-ra[96]
Lá am-la[97] xanh tốt
Những việc này thật hiếm
Cũng có thể xảy ra
Nhưng xá-lợi Thế Tôn
Chẳng thể nào có được.
Giả sử dùng lông rùa
Dệt thành chiếc áo đẹp
Để lúc lạnh ấm thân
Thì mới được xá-lợi.
Giả sử chân loài muỗi
Biến thành tòa lâu đài
Vững chắc không lay động
Mới cầu được xá-lợi.
Ví như loài đỉa kia
Trong miệng sanh răng trắng
Dài lớn, bén như gươm
Mới cầu được xá-lợi.
Giả sử dùng sừng thỏ
Làm thành chiếc thang dài
Bắc lên tận cung trời
Mới cầu được xá-lợi.
Ví chuột leo thang này
Đánh đuổi A-tu-la
Hay ngăn che vầng nguyệt
Mới cầu được xá-lợi.
Nếu ruồi uống rượu say
Bay khắp các xóm thôn
Xây dựng nhiều nhà lớn
Mới cầu được xá-lợi.
Nếu sắc môi của lừa
Đỏ như quả tần-bà[98]
Diễn ca múa thật hay
Mới cầu được xá-lợi.
Nếu quạ và hưu lưu[99]
Cùng ở chung một tổ
Cả hai đều thuận thảo
Mới cầu được xá-lợi.
Giả sử lá ba-la
Có thể thành tàn lọng
Ngăn che cơn mưa lớn
Mới cầu được xá-lợi.
Nếu một chiếc thuyền lớn
Chở đầy các báu vật
Nhẹ nhàng lướt trên đất
Mới cầu được xá-lợi.
Giả sử chim hồng tước
Dùng mỏ ngậm Hương sơn[100]
Bay đi khắp mọi nơi
Mới cầu được xá-lợi.
Nghe bài kệ này, Pháp Sư Thọ Kí cũng dùng kệ đáp:
Hay thay, Đại nhân giả!
Bậc tài giỏi trong chúng
Có phương tiện tuyệt vời
Được Thế Tôn thọ kí.
Như Lai oai đức lớn
Hay cứu giúp thế gian
Nhân giả lắng lòng nghe
Tôi xin thứ tự nói!
Cảnh giới Phật khó lường
Thế gian chẳng thể sánh
Tánh Pháp thân[101] thường trụ
Tu không làm sai khác
Thể chư Phật đều đồng
Pháp nói ra cũng thế.
Chư Phật không do tạo
Lại cũng vốn không sanh
Thế Tôn thân kim cương
Tạm hiện hóa thân này.
Cho nên xá-lợi Phật
Không phải như hạt cải
Thân Phật chẳng máu thịt
Làm sao có xá-lợi.
Phương tiện lưu cốt thân
Vì lợi ích hữu tình
Pháp thân là chánh giác
Pháp giới tức Như Lai
Đây là chân thân Phật
Cũng gọi là “như thị pháp”[102].

Bấy giờ ba vạn hai ngàn vị trời trong hội nghe nói thọ mạng Như Lai vô cùng dài lâu, đều rất vui mừng, tất cả biết được điều chưa từng có, liền cùng phát tâm Vô thượng bồ-đề và cùng nói kệ :

Phật chẳng vào niết-bàn
Chánh pháp cũng không diệt
Vì lợi ích chúng sanh
Mà thị hiện có diệt độ.
Thế Tôn chẳng nghĩ bàn
Diệu thân không dị tướng
Vì lợi ích chúng sanh
Hiện các tướng trang nghiêm.

Bồ-tát Diệu Tràng đối trước đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bốn đức Như Lai, hai vị đại sĩ[103] và các vị trời nghe nói thọ lượng của đức Thích-ca Mâu-ni vô lượng, liền từ tòa ngồi đứng dậy chắp tay cung kính bạch rằng:

– Bạch đức Thế Tôn! Nếu thật như thế, các đức Như Lai không vào niết-bàn, không có xá-lợi, vì sao trong kinh nói có niết-bàn và xá-lợi Phật, để rồi hôm nay tất cả trời người cung kính cúng dường? Chư Phật quá khứ lưu lại cốt thân, phân khắp thế gian, trời người cúng dường được phước vô lượng. Hôm nay nói không, khiến cho con và chúng hội nghi ngờ. Cúi xin Thế Tôn thương xót giảng nói cho chúng con hiểu!

Đức Phật dạy rằng:

– Các ông nên biết, nói vào niết-bàn và có xá-lợi, là căn cứ theo ý nghĩa bí mật. Các ông lắng nghe, Ta nói nghĩa này! Các Đại bồ-tát phải nên biết rõ, có mười nguyên nhân giải thích thật nghĩa Như Lai nói có Đại niết-bàn viên mãn rốt ráo:

– Chư Phật Như Lai hoàn toàn đoạn sạch các phiền não chướng[104], và sở tri chướng[105], nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai hiểu rõ tất cả hữu tình vô tánh[106] và pháp vô tánh, nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai có đủ năng lực chuyển được thân y[107] và cả pháp y[108], nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai tự tại chấm dứt nhân duyên giáo hóa các loài hữu tình, nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai đã chứng Pháp thân chân thật bình đẳng, lìa tướng sai biệt, nên gọi niết-bàn

– Chư Phật Như Lai thấu rõ thể tánh sanh tử niết-bàn không hai không khác, nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai thấu suốt nguồn gốc của tất cả pháp, chứng trí thanh tịnh, nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai tu tập rốt ráo tất cả các pháp vô sanh vô diệt, nên gọi niết-bàn.

– Như Lai đã đạt chánh trí đối với chân như pháp giới[109], thật tế bình đẳng[110], nên gọi niết-bàn.

– Chư Phật Như Lai thấu suốt thể tánh niết-bàn và pháp vốn không sai biệt, nên gọi niết-bàn.

Này thiện nam tử! Các Đại bồ-tát phải nên biết rõ, có mười nguyên nhân giải thích thật nghĩa Như Lai nói có Đại niết-bàn viên mãn rốt ráo:

– Tất cả phiền não từ lạc dục sanh, lạc dục là gốc, các đức Như Lai đã đoạn lạc dục, nên gọi niết-bàn.

– Các đức Như Lai đã đoạn lạc dục, không chấp một pháp; vì không chấp thủ, cho nên không đến không đi; vì không chấp thủ, nên gọi niết-bàn.

– Vì không đến đi và không chấp thủ, cho nên Pháp thân chẳng sanh chẳng diệt, vì không sanh diệt, nên gọi niết-bàn.

– Lí không sanh diệt, ngôn từ không thể diễn đạt rốt ráo, vì bặt ngôn từ, nên gọi niết-bàn.

– Vì không nhân ngã, chỉ có pháp sanh diệt được chuyển y[111], nên gọi niết-bàn.

– Các đức Như Lai thấu suốt phiền não, các tùy phiền não[112] đều là khách trần[113], pháp tánh[114] là chủ, không đến không đi, nên gọi niết-bàn.

– Chân như là thật, còn tất cả pháp đều là hư vọng, thể của thật tánh tức là chân như, tánh của chân như tức là Như Lai, nên gọi niết-bàn.

– Tánh của thật tế thì không hí luận, chỉ có Như Lai mới chứng thật tế, vĩnh viễn đoạn trừ những pháp hí luận[115], nên gọi niết-bàn.

– Vô sanh là thật, sanh là hư vọng, kẻ ngu si chìm sâu trong sanh tử, Như Lai thể hội vô sanh chân thật này, không còn hư vọng, nên gọi niết-bàn.

– Pháp hư vọng đều từ nhân duyên sanh, pháp chân thật không từ nhân duyên khởi, pháp thân Như Lai là pháp chân thật, nên gọi niết-bàn.

Các Đại bồ-tát phải nên biết rõ, có mười nguyên nhân giải thích thật nghĩa Như Lai nói có Đại niết-bàn viên mãn rốt ráo:

– Các đức Như Lai biết rõ bố thí-quả của bố thí vô ngã-ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về việc bố thí và quả bố thí, nên gọi niết-bàn.

– Các đức Như Lai biết rõ về giới và các quả báo của việc trì giới vô ngã-ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về việc trì giới và quả của trì giới, nên gọi niết-bàn

– Các đức Như Lai biết rõ về nhẫn và quả của nhẫn vô ngã-ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về việc hành nhẫn và quả của nhẫn, nên gọi niết-bàn

– Các đức Như Lai biết rõ tinh tiến và quả tinh tiến vô ngã-ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về hạnh tinh tiến và quả của nó, nên gọi niết-bàn.

– Các đức Như Lai biết rõ thiền định và quả của định vô ngã-ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm cả về thiền định và quả của định, nên gọi niết-bàn.

– Các đức Như Lai biết rõ trí huệ và quả của trí huệ, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm cả về trí huệ và quả trí huệ, nên gọi là niết-bàn.

– Các đức Như Lai biết rõ tất cả hữu tình-vô tình và tất cả pháp đều là vô tánh, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm, nên gọi niết-bàn.

– Nếu có ưa thích thì có truy cầu, do tâm truy cầu phải chịu khổ não, các đức Như Lai trừ tâm ưa thích, diệt ý mong cầu, nên gọi niết-bàn.

– Các pháp hữu vi đều có số lượng, các pháp vô vi vượt ngoài số lượng, Như Lai xa lìa các pháp hữu vi, chứng pháp vô vi không thuộc số lượng, nên gọi niết-bàn.

– Các đức Như Lai thấu suốt thể tánh của loài hữu tình và tất cả pháp đều là không tịch, lìa tánh không thì chẳng có tất cả, tánh không tức là pháp thân chân thật, nên gọi niết-bàn.

Này thiện nam tử! Đâu chỉ Như Lai không vào niết-bàn mới là hiếm có, mà còn những mười trường hợp hiếm khác, đó là công hạnh của các Như Lai:

– Sanh tử loạn động, niết-bàn vắng lặng. Do sanh tử và niết-bàn bình đẳng, nên các Như Lai không ở lưu chuyển, không trụ niết-bàn, cũng không khởi tâm nhàm chán hữu tình.

– Như Lai không nghĩ tất cả chúng sanh là hạng ngu si, kiến chấp sai lầm, bị các phiền não trói buộc bức ép, ta phải khai ngộ giúp họ giải thoát. Bởi sức căn lành từ bi đời trước, Như Lai thuận theo căn tánh ý thích, khả năng hiểu biết của các chúng sanh, không tâm phân biệt, tự nhiên hóa độ, thị giáo lợi hỉ[116] mãi đến vị lai, không bao giờ dứt.

– Như Lai không nghĩ, nay Ta giảng thuyết mười hai thể loại[117], làm lợi ích lớn cho mọi chúng sanh, nhưng do oai lực căn lành đại từ đại bi đời trước, Như Lai giảng nói cho họ nghe biết, mãi đến vị lai, không bao giờ dứt.

– Như Lai không nghĩ, nay Ta nên vào xóm làng thành ấp, vào cung vua quan, nhà bà-la-môn, cung sát-đế-lợi[118], nhà của phệ-xá[119] và thủ-đà-la[120] để hành khất thực, nhưng do năng lực thói quen của thân miệng ý nhiều đời, nên tự nhiên đến; cũng vì lợi ích tất cả chúng sanh mà Ta khất thực.

– Thân Như Lai không bao giờ đói khát, cũng không có các việc đại tiểu tiện, yếu gầy nhọc mệt. Tuy hành khất thực, mà không thọ thực cũng không phân biệt. Nhưng vì tùy thuận lợi ích hữu tình, nên Phật thị hiện có tướng thọ thực.

– Như Lai không nghĩ, chúng sanh có ba bậc thượng trung hạ, Ta tùy căn tánh mà thuyết pháp yếu. Bởi Phật Thế Tôn không tâm phân biệt, tùy thuận căn khí, giỏi ứng cơ duyên để thuyết mà thôi.

– Như Lai không nghĩ các hữu tình này không cung kính Ta, thường mắng chửi Ta, Ta không thể cùng với họ luận bàn; các hữu tình kia tâm cung kính Ta, luôn ca ngợi Ta, Ta nên cùng họ vui vẻ đàm luận. Bởi tâm từ bi của các Như Lai bình đẳng không hai.

– Tâm các Như Lai không còn yêu ghét-kiêu mạn, tham lam bỏn xẻn, nhưng các Như Lai ưa thích vắng lặng, ca ngợi thiểu dục[121], xa lánh nơi ồn náo.

– Như Lai thấu suốt tất cả các pháp, không một pháp nào mà không hiểu biết, không một pháp nào mà không thông đạt; tất cả cảnh trí, thảy đều hiện tiền mà không khởi tâm suy nghĩ phân biệt. Nhưng thấy hữu tình tạo tác các nghiệp, Như Lai tùy thuận ý thích của họ mà khéo dẫn dụ, giúp họ thoát khổ.

– Khi thấy một số hữu tình giàu có, Như Lai không khởi tâm ý vui mừng, thấy họ suy tổn, Như Lai cũng không khởi ý lo buồn. Nhưng nếu Như Lai thấy các hữu tình tu tập chánh hạnh[122], với tâm đại bi vô ngại tự nhiên, Ngài đến cứu giúp; nếu thấy hữu tình tu tập tà hạnh[123], thì cũng với lòng đại bi vô ngại tự nhiên Ngài đến cứu giúp kẻ ấy.

Này thiện nam tử! Ông nên biết rằng, Như Lai Chánh Giác giảng thuyết vô biên chánh hạnh như vậy, đó chính là tướng niết-bàn chân thật. Nếu lúc nhìn thấy Như Lai niết-bàn, thì biết đó là Như Lai lập bày phương tiện tạm thời, cũng như lưu lại xá-lợi là để tất cả hữu tình cung kính cúng dường. Đó đều là do sức “thiện căn từ” của các Như Lai. Nếu có người nào cúng dường xá-lợi, thì vị lai sẽ xa lìa tám nạn[124], gặp được chư Phật và thiện tri thức[125], không mất thiện tâm, được vô lượng phước, mau chóng thoát khổ, không còn bị dây sanh tử trói buộc. Những hạnh tu tập kì diệu như thế, mong các ông nên siêng năng tu tập, không được buông lung!

Bồ-tát Diệu Tràng nghe chính Đức Phật nói về ý nghĩa không vào niết-bàn và dạy các hạnh sâu mầu như thế, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng:

Nay con mới biết Như Lai Đại sư không vào niết-bàn, việc lưu xá-lợi làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, con thật vui mừng, như nhận được điều chưa bao giờ có.

Khi Phật thuyết phẩm Như Lai thọ lượng, vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm Vô thượng bồ-đề; bốn đức Như Lai bỗng nhiên biến mất. Bồ-tát Diệu Tràng rời tòa đảnh lễ nơi chân Đức Phật, rồi liền trở về trụ xứ của mình.

Chú thích:

[1]Thiên Thai Trí Giả: : (538-597) khai tổ tông Thiên Thai (có thuyết nói là tổ thứ ba), người ở Hoa Dung, Kinh Châu, Trung Quốc, họ Trần, tự Đức An, tăng tục tôn xưng là Trí Giả Đại Sư, Thiên Thai Đại Sư.

[2] Hành xứ: đối tượng của quán tâm, ở đây chỉ cho tất cả các cảnh giới mà trí huệ Phật chiếu soi.

[3]Từ Giác Đại Sư: hành giả Thiền Tịnh song tu, sống vào đời Tống, Trung Quốc, họ Tôn, người Tương Dương (Hồ Bắc). Thuở nhỏ, sư theo Nho nghiệp, bác thông kinh sử. Đến năm 29 tuổi, sư đến chùa Trường Lô, Chân Châu (Nghi Chân, Giang Tô) lễ ngài Viên Thông Pháp Tú cầu xuất gia và thụ giới cụ túc. Sư có các tác phẩm:Thiền xã thanh quy, Vi Giang tập, Toạ thiền châm, Niệm Phật tham thiền cầu tông chỉ thuyết, Liên hoa thắng hội lục văn, Niệm Phật hồi hướng phát nguyện văn.

[4] Chủ bạn: gọi đủ là Chủ bạn viên minh cụ đức môn, một trong mười Huyền môn của giáo nghĩa Hoa nghiêm. Tức nói về hiện tượng duyên khởi, khi nêu một hiện tượng làm chủ thì tất cả các hiện tượng khác là bạn tập họp nơi chủ; làm chủ bạn lẫn nhau, tròn sáng đầy đủ các tánh đức.

[5] Nhất đa: gọi đủ Nhất đa tương dung bất đồng môn, một trong mười Huyền môn của giáo nghĩa Hoa nghiêm. Tức tất cả hiện tượng duyên khởi, trong nhất có đa, trong đa có nhất; đa nhất sai biệt mà dung nhập nhau.

[6] Tánh hải: biển tánh, tức chân như thể tánh rộng sâu như biển; cũng chính là cảnh giới Pháp thân Như Lai.

[7] Giác vương: đức hiệu của Phật. Ở đây chỉ cho Niết-bàn Phật.

[8] Ba điểm: ba điểm của chữ Y tất-đàm dụ cho ba đức của Niết-bàn: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát.

[9] Bốn đức: tức bốn đặc tánh của Pháp thân: Thường, lạc, ngã, tịnh.

[10] Linh Thứu: còn gọi là Linh sơn, tức núi Kì-xà-quật. Núi nằm phía đông thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, Trung Ấn Độ. Vì núi có hình dạng giống đầu chim thứu (kên kên), hoặc có nhiều chim thứu sinh sống, nên gọi như thế. Nơi đây, Đức Phật đã thuyết các kinh Đại thừa như Pháp hoa… nên đã trở thành thắng địa của Phật giáo.

[11] Vương Xá: thủ đô của nước Ma-kiệt-đà, Trung Ấn Độ thời xưa; nay là vùng Rajgir phía nam huyện Patna, bang Behar, Ấn Độ; là một trong những trung tâm truyền giáo nổi tiếng thời Đức Phật còn tại thế.

[12] Pháp giới: 1- chỉ cho pháp tánh, thật tướng. 2- giới hạn, phạm vi, chủng loại, tự thể của các pháp. 3- một trong mười tám giới, tức tất cả đối tượng nắm bắt của ý thức.

[13] Như Lai: một trong các đức hiệu của Phật, trong đó Như nghĩa là chân như, Lai nghĩa là đến. Tức các Đức Phật nương nơi đạo Chân như mà đạt đến quả Phật nên gọi Như Lai; hoặc nói Như chư Phật mà Lai, gọi là Như Lai; Như thật đạo mà Lai, gọi là Như Lai…

[14] Bí-sô: phiên âm khác của chữ tì-kheo, chỉ cho người xuất gia theo Phật đã thọ đầy đủ giới pháp. Trong đó, người nam thọ đủ 250 giới, trở thành bí-sô; người nữ thọ 349 giới trở thành bí-sô-ni. Bí-sô gồm ba nghĩa: khất sĩ, xin ăn để nuôi sống thân mạng; bố ma, đánh dẹp ma vương và ma dân; phá ác, tức diệt trừ phiền não kiến hoặc, tư hoặc.

[15] A-la-hán: quả vị cao nhất trong bốn quả vị Thanh văn. A-la-hán gồm ba nghĩa: 1- Sát tặc, diệt trừ sạch giặc phiền não; 2- Ứng cúng, xứng đáng được trời người cúng dường; 3- Vô sanh, vĩnh viễn không còn thọ sanh, thường trụ trong niết-bàn.

[16] Lậu: sự rỉ chảy, chỉ cho phiền não. Vì phiền não ngày đêm rò rỉ, hiện hành khiến tâm chúng sanh loạn động, bất an.

[17] Kết sử: kết và sử, cũng là tên gọi khác của phiền não. Kết nghĩa là trói buộc, tức phiền não trói buộc, khiến chúng sanh không thể nào ra khỏi ba cõi; Sử nghĩa là sai khiến, tức phiền não sai khiến, não loạn chúng sanh.

[18] Tám giải thoát: tám bậc thiền định từ thấp đến cao, có năng lực đoạn trừ phiền não trong ba cõi, đưa đến giải thoát.

[19] Cụ thọ: từ tôn xưng các đệ tử Phật, hoặc từ ngữ mà các bậc trưởng lão dùng để gọi đệ tử niên thiếu, cũng dùng gọi chung các tì-kheo.Còn gọi là tịnh mạng, huệ mạng, trưởng lão, tôn giả, đại đức, hiền giả, thánh giả.

[20] A-nhã Kiều-trần-như: vị đệ tử a-la-hán đầu tiên của Đức Phật, một trong năm vị được Đức Phật độ trong thời pháp đầu tiên ở vườn Nai. Bốn vị còn lại là: 1. A-thuyết-thị-đa, tức Mã Thắng, người đã thức tỉnh Xá-lợi-phất đến với Phật bằng oai nghi an tường và bài kệ của mình; 2. Bà-thấp-ba; 3. Ma-ha-na-ma; 4. Ba-lợi-đế-ca.

[21] Đại Ca-diếp-ba: vị a-la-hán, một trong mười đệ tử xuất sắc của Đức Phật, được tôn xưng là Đệ nhất đầu-đà, cũng là Sơ tổ Thiền tông Ấn-Hoa.

[22] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp: ba anh em họ Ca-diếp, vốn là ngoại đạo thờ lửa, sau được Đức Phật hàng phục, qui hướng chánh pháp.

[23] Xá-lợi-phất: vị a-la-hán, một trong mười đệ tử xuất sắc của Đức Phật, được tôn xưng là Đệ nhất trí tuệ trong hàng Thanh văn.

[24] Mục-kiền-liên: vị a-la-hán, một trong mười đệ tử xuất sắc của Đức Phật, được tôn xưng là Đệ nhất thần thông.

[25] A-nan: vị a-la-hán, một trong mười đệ tử xuất sắc của Đức Phật, được tôn xưng là Đệ nhất đa văn, người trùng tuyên kinh luận trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất.

[26] Hữu học: vẫn còn phải tu học; tức chỉ cho các bậc thánh Thanh văn từ quả vị Dự lưu đến Nhất lai.

[27] Thanh văn: những đệ tử nghe âm thanh thuyết pháp của Đức Phật mà tu tập, thấu suốt được lí tứ đế, đoạn trừ kiến tư hoặc, chứng niết-bàn. Pháp môn đưa đến quả Thanh văn gọi là Thanh văn thừa.

[28] Bồ-tát: gọi đủ là bồ-đề tát-đỏa; bồ-đề, Trung Quốc dịch là giác; tát-đoả, dịch là hữu tình. Tức những hành giả tu tập, trên thì dùng trí tuệ cầu Phật đạo, dưới thì dùng tâm bi cứu độ chúng sanh.

[29] Thí giới: bố thí và trì giới.

[30] Thiền định: tức là thiền và định; thiền, dịch âm của từ dhyāna; định, dịch ý của từ samādhi. Cả hai đều có nghĩa là chuyên chú vào một đối tượng nào đó để tâm đạt đến trạng thái an định, không tán loạn. Hoặc chỉ cho bốn thiền cõi Sắc và bốn định cõi Vô Sắc, trong các kinh luận gọi chung là bốn thiền tám định.

[31] Tổng trì: dịch ý của từ đà-la-ni, hàm nghĩa: “Năng lực giữ gìn khiến không mất pháp thiện, không sanh pháp ác.” Đà-la-ni có bốn loại là Pháp đà-la-ni, Nghĩa đà-la-ni, Chú đà-la-ni và Nhẫn đà-la-ni. Nhưng ngày nay thường dùng từ này với nghĩa Chú đà-la-ni.

[32] Nhất thiết chủng trí: trí huệ nhận biết tất cả đạo pháp, tất cả chủng loại chúng sanh. Tức trí Phật.

[33] Ma quân: quân chúng của Ma vương Ba-tuần, chủ cõi Tha Hóa Tự Tại, một loại ma chuyên phá hoại Phật pháp, quấy nhiễu người tu hành Phật đạo.

[34] Sáu đường: sáu nơi mà chúng sanh theo nghiệp phải sanh đến: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la, người, trời.

[35] Đại trí: trí huệ rộng lớn, thông đạt tất cả sự lí.

[36] Đại nhẫn: sức nhẫn vô cùng, chịu đựng tất cả khổ não từ thân tâm, hoàn cảnh bức bách mà không cảm thấy có sự chịu đựng.

[37] Niết-bàn: bao gồm các nghĩa: diệt, tịch, tịch diệt, tịch tĩnh, diệt độ. Nguyên ngữ Phạn là nirvāna, nghĩa là sự thổi tắt ngọn lửa, hoặc trạng thái của sự tắt này. Về sau được dùng chỉ cho cảnh giới giải thoát, diệt sạch phiền não, hoặc chỉ cho vị tăng qua đời.

[38] Vô sanh nhẫn: còn gọi Vô sanh pháp nhẫn, tức quán biết chắc thật lí không sanh không diệt mà tâm an trụ không lay động nơi lí này.

[39] Nhị thừa: hai phương tiện đưa người đến giải thoát: Thanh văn và Duyên giác.

[40] Đồng tử: Vốn chỉ cho thiếu niên nhỏ tuổi, nhưng trong kinh luận nhà Phật, từ này còn dùng để gọi các vị Bồ-tát.

[41] Lê-xa-tì: một trong các chủng tộc sát-đế-lợi thuộc bộ tộc Bạt-kì ở thành Tì-xá-li, Trung Ấn Độ thời xưa.

[42] Vô thượng bồ-đề: trí huệ hay sự giác ngộ tối thượng của Phật.

[43] Đại thừa: phương tiện rộng lớn, siêu việt đưa chúng sanh đến đại giác ngộ.

[44] Long vương: vua loài rồng, một trong tám bộ chúng bảo vệ Phật pháp.

[45] Dược-xoa: vị quỉ thần bảo vệ Phật pháp, gồm hai loại là đi trên đất và bay trên hư không vô cùng nhanh; một trong tám bộ chúng.

[46] Yết-lộ-trà: còn gọi ca-lầu-la, Trung Quốc dịch là kim sí điểu; tức thần chim cánh vàng, chuyên ăn thịt loài rồng; một trong tám bộ chúng.

[47] Càn-thát-bà: thần âm nhạc cõi trời, hầu cận Đế Thích, chỉ hưởng mùi hương, không dùng rượu thịt, là một trong tám bộ chúng.

[48] A-tu-la: Trung Quốc dịch là vô tửu, vô nhan, phi thiên. Vị thần chuyên đánh nhau với trời Đế Thích, giống như trời nhưng phước báu không bằng trời; là một trong sáu đường, một trong tám bộ chúng.

[49] Khẩn-na-la: cũng là thần âm nhạc. Vị thần này có âm giọng rất hay, giỏi múa hát, thân tướng giống như người, nhưng đầu có một sừng; một trong tám bộ chúng.

[50] Ma-hô-lạc-già: Trung Quốc dịch là đại mãng xà, tức thần rắn, cũng là thần giữ miếu ở thế gian. Do lúc còn sống phá giới, tà kiến, siểm nịnh, bỏn xẻn, nhiều sân hận, ham thích rượu thịt, nên sau khi chết bị đọa làm loại quỉ thần này.

[51] Tám bộ: tám nhóm chúng sanh bảo vệ Phật pháp: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hô-lạc-già.

[52] Tứ Thiên vương: bốn vị trời cai quản bốn ngọn núi ở bốn mặt lưng chừng núi Tu-di, chuyên bảo vệ thế gian. Đó là: thiên vương Trì Quốc ở phương đông, Tăng Trưởng ở phương nam, Quảng Mục ở phương tây, Đa Văn ở phương bắc.

[53] Ni-liên-thiền: một nhánh của sông Hằng, chảy theo hướng nam-bắc, nằm ở phía đông thành Già-da, nước Ma-kiệt-đà, Trung Ấn Độ. Sau khi Đức Phật tắm nơi dòng sông này, Ngài đã nhận bát sữa của cô gái chăn bò dâng cúng, rồi đến cội Tất-bát-la thiền định bốn mươi chín ngày mà thành Chánh giác.

[54] Thần Ha-lợi-để mẫu: vị quỉ thần, mẹ của năm trăm quỉ con. Vì ác nguyện khi xưa, nên nay quỉ mẫu này chuyên ăn thịt trẻ con ở thành Vương Xá. Sau Đức Phật dùng phương tiện khéo léo hóa độ, vị thần phát tâm thọ năm giới.

[55] Địa thần Kiên Lao: vị nữ thiên thần chủ quản đất đai, một trong mười hai vị trời cõi Sắc.

[56] Phạm vương: tức Đại Phạm thiên vương, chủ cõi Sơ thiền thuộc Sắc giới.

[57] Đế Thích: tức Thích-đề-hoàn-nhân, vua trời Đao-lợi thuộc cõi Dục.

[58] Câu-chi: danh từ số lượng của Ấn Độ thời xưa. Có ba thuyết: 1, tương đương mười vạn; 2, tương đương trăm vạn; 3, tương đương ngàn vạn.

[59] Do-tha: gọi đủ na-do-tha, danh từ số lượng Ấn Độ thời xưa, tương đương ngàn ức.

[60] Đại kiếp: một chu kì thành, trụ, hoại, không. Tức khoảng thời gian tám mươi trung kiếp, một trung kiếp gồm một lần tăng giảm.

[61] Mười thiện: ba điều thiện thuộc về thân: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; bốn điều thiện thuộc về miệng: không nói dối, không nói lời ác, không nói thêu dệt, không nói lời li gián; ba điều thiện thuộc về tâm: không tham dục, không sân hận, không nhận thức sai lầm.

[62] Lưu li Đế thanh: một loại ngọc quí màu xanh của trời Đế Thích.

[63] Tòa sư tử: tòa ngồi của Đức Phật; vì Phật là sư tử trong loài người nên tòa của Ngài gọi tòa sư tử.

[64] Tam thiên đại thiên thế giới: ba ngàn đại thiên thế giới. Một tiểu thế giới gồm một núi Tu-di làm trung tâm, chung quanh có bốn châu lớn, bảy núi và tám biển vây quanh. Một ngàn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Vì đại thiên thế giới này gồm có ba thiên: tiểu thiên, trung thiên và đại thiên hợp thành, nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới.

[65] Diêm-phù: gọi đủ là Diêm-phù-đề, một châu lớn ở phía nam núi Tu-di, là nơi mà loài người đang sinh sống, theo thế giới quan Phật giáo. Vì vùng đất này có nhiều cây diêm-phù (Trung Quốc dịch là Uế thọ) sinh trưởng nên có tên như thế.

[66] Hiền giả: từ gọi những người tu thiện, chưa đoạn hoặc chứng chân lí. Hoặc từ gọi những vị đã chứng ngộ giai vị cao, như kinh Tăng nhất a-hàm 29 ghi: hiền giả Xá-lợi-phất, hiền giả Mục-kiền-liên…

[67] Ma vương: ma Ba-tuần, vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại, cõi Dục.

[68] Sa-môn: từ gọi chung những người xuất gia, không kể Phật đạo hay ngoại đạo. Sa-môn gồm các nghĩa: siêng năng tu tập để đạt đến niết-bàn, đoạn dứt các điều ác…

[69] Phạm chí: Trung Quốc dịch là Tịch hạnh, là những bà-la-môn chí cầu đạt được thanh tịnh, không nhơ để sanh Phạm thiên. Hoặc chỉ cho những ngoại đạo xuất gia.

[70] Phi nhân: những chúng sanh không thuộc loài người, như tám bộ chúng trời, rồng, quỉ thần…

[71] Vô Thượng Chánh Biến Tri: từ tôn xưng Đức Phật, dịch nghĩa của chữ A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, cũng dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

[72] Diệu Cao: tức núi Tu-di, trung tâm của một tiểu thế giới, theo thế giới quan Phật giáo.

[73] Thế Tôn: Từ tôn xưng Đức Phật, vì Ngài là bậc đầy đủ muôn đức, tôn quí nhất trên thế gian.

[74] Đại Giác: Từ tôn xưng Đức Phật, vì sự giác ngộ của Ngài đã cùng tột, đầy đủ tự giác, giác tha.

[75] Thiện nam tử: chỉ những người nam hiền thiện theo Phật nghe pháp, tin nhận hành trì.

[76] Kiến chấp về ngã: chấp có thật ngã và ngã sở.

[77] Kiến chấp về nhân: đối với thân năm uẩn, chấp thật có chủ thể sanh mạng sanh vào cõi người, chứ không phải cõi khác.

[78] Kiến chấp chúng sanh: chấp thân do năm uẩn tạo thành này có thật thể.

[79] Kiến chấp thọ giả: chấp trước thân năm uẩn này có một khoảng thời gian tồn tại, hoặc dài hoặc ngắn, không đồng.

[80] Tà kiến: những nhận thức sai lầm.

[81] Ngã-ngã sở kiến: chấp trước ngã và pháp thuộc ngã là thật và thường hằng.

[82] Đoạn kiến: chấp ngã và thế gian chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi sẽ vĩnh viễn diệt tận.

[83] Thường kiến: chấp ngã và thế gian thường trụ.

[84] Chánh kiến: nhận thức đúng đắn, không sai lầm.

[85] Thiên Nhân Sư: từ tôn xưng Đức Phật, bậc thầy của trời và người.

[86] Ứng Chánh Đẳng Giác: còn gọi Ứng Chánh Biến Tri, từ tôn xưng Đức Phật. Tức gộp chung Ứng Cúng tức xứng đáng nhận cúng dường của trời người, Chánh Biến Tri tức nhận biết chính xác tất cả các pháp.

[87] Bà-la-môn: một chủng tộc hay giai cấp tăng lữ cao nhất ở Ấn Độ thời xưa. Tức chủng tộc tôn thờ Đại Phạm thiên và tu hạnh thanh tịnh.

[88] La-hầu-la: vị A-la-hán, bậc nhất về mật hạnh, một trong mười đệ tử xuất sắc của Đức Phật.

[89] Lê-xa: một dòng họ thuộc bộ tộc Bạt-kì, chủng tộc Sát-đế-lợi cư trú tại thành Tì-xá-li, Trung Ấn Độ thời xưa.

[90] Nhân giả: từ ngữ dùng kính xưng một người.

[91] Xá-lợi: Di cốt của một người. Về sau xá-lợi được dùng chỉ cho di thể của Đức Phật hoặc các thánh đệ tử còn lại sau khi hỏa táng.

[92] Đao-lợi: tầng trời thứ hai cõi Dục, do Đế Thích làm chủ. Tầng trời này gồm ba mươi hai tòa thành bố trí tại tám phương, Đế Thích ngựhí tại trung ương, tổng cộng là ba mươi ba, nên gọi là trời Ba Mươi Ba.

[93] Độc giác: còn gọi là Duyên giác, Bích-chi. Tức những bậc thánh tu tập lúc không có Phật ra đời, không được đích thân nghe lời Phật dạy, độc hành độc cư, không thích thuyết pháp giáo hóa, tự quán pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo. Những pháp môn phương tiện đưa người đến quả vị Độc giác gọi là Độc giác thừa hay Duyên giác thừa.

[94] Cây chiêm-bặc: một loại cây trổ hoa màu vàng và rất thơm, thường sinh trưởng ở các khu rừng nhiệt đới Ấn Độ và dãy Hi-mã-lạp.

[95] Cây đa-la: một loại cây có thân rất cao, đến bảy tám mươi thước, quả chín chuyển sang màu đỏ như thạch lựu, ăn được; khi bị thân bị chặt đứt thì cây không thể nẩy chồi, đâm nhánh. Loại cây này phần nhiều sinh trưởng ở vùng Đông Ấn Độ.

[96] Cây khát-thọ-ra: một loại cây giống như táo nhỏ, thường sinh trưởng ở Ba-tư, Đông Ấn Độ, Phi châu…. Quả của cây này bằng đầu ngón tay, có vị ngọt, thân chứa nhiều nước có thể gây men làm rượu.

[97] Cây am-la: một loại cây giống như đào, gồm hai loại: một loại cho quả nhỏ, quả sống màu xanh, chín chuyển thành vàng; loại khác cho quả lớn hơn, sống chín đều xanh. Trổ rất nhiều hoa, nhưng kết quả rất ít. Có người cho đây là cây xoài, có người cho là táo tàu, không biết ai đúng.

[98] Quả Tần-bà: Trung Quốc dịch là quả Tương tư, quả bằng hạt đậu, màu đỏ.

[99] Hưu lưu: chim cú mèo. Loại chim thường kiếm ăn ban đêm, vì ban ngày chúng không nhìn thấy.

[100] Hương sơn: tức Hương Túy sơn, Côn-lôn sơn. Ngọn núi cao nhất, trung tâm của cõi Diêm-phù, nằm phía bắc hồ Vô Nhiệt.

[101] Pháp thân: thân vô lậu vô vi, bất sanh bất diệt, là chân thân Phật, một trong ba thân.

[102] Như thị pháp: pháp như vậy, đương nhiên xứng hợp với đạo lí như thật.

[103] Đại sĩ: từ ngữ tôn xưng Bồ-tát.

[104] Phiền não chướng: phiền não chướng ngại thánh đạo, ngăn cản con đường đến niết-bàn.

[105] Sở tri chướng: chấp trước pháp sở chứng, chướng ngại trí huệ. Tức tất cả những tri kiến thế gian chướng ngại trí huệ giải thoát. Hoặc cho rằng tham sân si làm cho chúng sanh ngu muội, không nhận biết được sự tướng và thật tướng của các pháp.

[106] Hữu tình vô tánh-Pháp vô tánh: tất cả loài có tình thức không có tự thể chân thật, chỉ do nhân duyên hòa hợp mà hiện hữu; các pháp cũng như vậy, nên gọi là pháp vô tánh.

[107] Thân y: thân tức nơi nương tựa của thức thứ tám lưu chuyển hoàn diệt.

[108] Pháp y: pháp tức chân như, nơi nương tựa của các pháp mê ngộ.

[109] Chân như pháp giới: pháp giới của chân như, tức bản thể của chân như; hoặc nói chân như và pháp giới cùng một nghĩa, tức chỉ cho bản thể của vạn pháp, thường hằng bất động, vượt ngoài năng lực tư duy của ý thức.

[110] Thật tế bình đẳng: lí thể chân như chân thật bình đẳng, bặt dứt nhị biên; tức đại niết-bàn rốt ráo.

[111] Chuyển y: chuyển đổi chỗ nương tựa của các pháp nhiễm tịnh, sanh diệt thành nơi nương tựa của các pháp thanh tịnh thù thắng.

[112] Tùy phiền não: những phiền não phụ thuộc, tùy thuận căn bản phiền não mà sanh khởi; gồm hai mươi món: mười tiểu tùy, hai trung tùy, tám đại tùy.

[113] Khách trần: chỉ cho phiền não; vì phiền não vốn chẳng thuộc tâm, do mê lí mà khởi nên gọi là khách, làm ô nhiễm tâm như bụi nên gọi là trần.

[114] Pháp tánh: thể tánh chân thật của các pháp, tức chân như thật tướng, pháp giới, niết-bàn.

[115] Hí luận: những ngôn luận phi lí, không làm tăng trưởng các pháp thiện. Hoặc những lời cười đùa vô nghĩa làm vui lòng người, nhưng khiến tâm loạn động.

[116] Thị giáo lợi hỉ: bốn giai đoạn mà Đức Phật dùng để giáo hoá chúng sanh. Trong đó, Thị là chỉ bày cho thấy, Giáo dạy bảo thực hành, Lợi là dẫn dắt khiến được lợi ích, Hỉ khen ngợi hạnh tu khiến chúng sanh vui.

[117] Mười hai thể loại: số lượng bộ loại kinh điển mà Đức Phật đã nói trong một đời: khế kinh, trùng tụng, kệ cô khởi, nhân duyên, bản sự, bản sanh, vị tằng hữu, thí dụ, luận nghị, vô vấn tự thuyết, phương quảng, thọ kí.

[118] Sát-đế-lợi: giai cấp vua quan, giai cấp thứ hai trong bốn giai cấp trong xã hội Ấn Độ thời xưa.

[119] Phệ-xá: giai cấp thương buôn, giai cấp thứ ba trong bốn giai cấp trong xã hội Ấn Độ thời xưa.

[120] Thủ-đà-la: giai cấp nông dân và nô lệ, thấp nhất trong bốn giai cấp trong xã hội Ấn Độ thời xưa.

[121] Thiểu dục: không tham cầu nhiều, tự biết đủ với hoàn cảnh hiện tại.

[122] Chánh hạnh: thực hiện pháp tu đúng đắn, không xen tạp, không sai biệt, không thiên lệch.

[123] Tà hạnh: hạnh tu không đúng, trái chánh pháp.

[124] Tám nạn: tám trường hợp khó gặp được Phật, không đủ điều kiện, không có thời gian để tu tập Phật đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, châu Bắc Câu-lô, cõi trời Trường Thọ, kẻ điếc đui câm ngọng, người thông minh luận giỏi ở thế gian, sanh ra không gặp Phật hoặc trước hoặc sau.

[125] Thiện tri thức: người có thể mang lại lợi ích giác ngộ Phật đạo cho ta.

Mời bạn đọc tụng trọn bộ Kinh Kim Quang Minh tại: Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương trọn bộ PDF

Bài viết cùng chuyên mục

Kinh Vô Lượng Thọ phẩm thứ 33: Khuyến dụ sách tấn

Định Tuệ

Danh hiệu của Đức Phật A Di Đà

Định Tuệ

Dùng âm nhạc cúng dường Phật, được tiếng nói êm dịu dễ nghe

Định Tuệ

Kinh Vô Lượng Thọ phẩm thứ 41: Hoặc tận kiến Phật

Định Tuệ

Chỉ tính thấy không sinh không diệt

Định Tuệ

Kinh Địa Tạng phẩm thứ chín: Xưng danh hiệu chư Phật

Định Tuệ

Kinh Kim Quang Minh Quyển 5: Phẩm Giảng lại tánh Không

Định Tuệ

Kinh Hoa Nghiêm tập 30: Phẩm A Tăng Kỳ thứ ba mươi

Định Tuệ

Hồi hướng công đức là gì? Hồi hướng công đức có tác dụng gì?

Định Tuệ

Viết Bình Luận