Nếu như chúng ta thực hiện mười thiện nghiệp này thì không những trong đời sống hiện tại được hạnh phúc an lạc mà sau khi thân này kết thúc sẽ được sanh vào cảnh giới an lành.
Việc thực hiện con đường đi ra khỏi tham, sân, si, luôn luôn được đức Phật quan tâm và khuyến khích chư đệ tử của mình hành trì để từ đó các pháp an lạc được tăng trưởng và các pháp khổ đau được diệt trừ. Nếu không khéo hành trì thì không những các khổ đau tăng trưởng mà các thiện pháp cũng bị tiêu trừ.
Thập thiện hay còn gọi là thập thiện nghiệp, thập thiện giới, thập thiện pháp. Tên gọi khác nhau là do tùy cách diễn nghĩa theo các phương diện ứng dụng. Chẳng hạn như khi chỉ nói riêng pháp số thì dùng danh từ thập thiện để chỉ cho mười điều thiện bao gồm: không sát sinh; không trộm cắp; không tà dâm; không vọng ngữ; không ỷ ngữ; không lưỡng thiệt; không ác khẩu; không tham lam; không sân giận; không si mê.
Người Phật tử tại gia phát tâm học Phật ngoài những điều căn bản quy y Tam bảo thọ trì năm giới cấm để trở thành đệ tử của Đức Phật đồng thời trở thành tín đồ chân chánh của Phật giáo, nếu như nhân duyên đầy đủ chúng ta nên tiến thêm một bước nữa, nên thọ trì Thập thiện giới pháp, để gieo duyên với Bồ tát đạo và trồng căn lành để đời sau được sinh lại làm người đầy đủ phước báo, hình tướng trang nghiêm, thông minh trí tuệ và điều quan trọng nhất là được gặp Phật pháp, thọ trì tịnh giới, tinh tấn tu trì đạt đến giải thoát giác ngộ.
Mười thiện nghiệp
Ba thiện nghiệp của thân:
1. Có người từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ,sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loại hữu tình.
2. Từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, bất cứ tài vật gì của người khác, hoặc tại thôn làng hoặc tại rừng núi, không cho người ấy, người ấy không lấy trộm tài vật ấy.
3. Từ bỏ sống theo tà hạnh đối với các dục, không liên hệ đến dục tình với các hạng nữ nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có mẹ cha che chở, có anh che chở, có chị che chở, có bà con che chở, đã có chồng, được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân được trang sức bằng vòng hoa.
Bốn thiện nghiệp của khẩu:
1. Có người từ bỏ vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, đến chỗ tập hội, hay đến chỗ chúng hội, hay đến giữa các thân tộc,hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa vương tộc, khi được dẫn ra làm chứng và được hỏi: “Này người kia, hãy nói những gì Ông biết”. Nếu biết, người ấy nói: “Tôi biết” , nếu không biết, người ấy nói : “Tôi không biết”; hay nếu không thấy, người ấy nói: “Tôi không thấy”; nếu thấy,người ấy nói : “Tôi thấy”. Như vậy lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc vì nguyên nhân tự kỷ,hoặc vì nguyên nhân tha nhân, hoặc vì nguyên nhân một vài quyền lợi gì.
2. Từ bỏ nói”hai lưỡi”, tránh xa nói”hai lưỡi”. Nghe điều gì ở chỗ này, không đi nói với những người kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, ưa thích hòa hợp, vui thích hòa hợp,thích thú hòa hợp, nói đến những lời đưa đến hòa hợp.
3. Từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, những lời nói nhu hoà, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, người ấy nói những lời như vậy.
4. Từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, người ấy nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi.
Ba thiện nghiệp của ý:
1. Có người không có tham ái, không tham lam tài vật của kẻ khác, không nghĩ rằng: “Ôi, mong rằng mọi tài vật của người khác trở thành của mình!”
2. Lại có người không có tâm sân,không có khởi lên hại ý, hại niệm,nghĩ rằng: “Mong rằng những loài hữu tình này sống không thù hận, không oán thù,không nhiễu loạn,được an lạc,lo nghĩ tự thân!”
3. Người ấy có chánh kiến, không có tư tưởng điên đảo: “Có bố thí, có kết quả của bố thí,có tế lễ, có cúng dường,các hành vi thiện ác có kết qủa dị thục,có đời này,có đời sau, có mẹ,có cha,có các loại hóa sanh,trong đời có các Sa-môn,Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu,sau khi tự tri,tự chứng lại tuyên bố cho đời này và đời sau”.
Ðấy là mười thiện nghiệp, nếu như chúng ta thực hiện mười thiện nghiệp này thì không những trong đời sống hiện tại được hạnh phúc an lạc mà sau khi thân này kết thúc sẽ được sanh vào cảnh giới an lành. Như đức Thế Tôn đã tuyên bố: “Do nhân hành đúng pháp, hành đúng chánh đạo, ở đây, một số lớn loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, đời này.”
Trong kinh Tăng Chi Bộ, tập II, Phẩm Nghiệp đạo, đức Thế Tôn khẳng định rằng đối với ác nghiệp này, Tỳ kheo nào thành tựu bốn pháp: tự mình làm, khích lệ người khác làm, chấp nhận làm và tán thán làm, thì sẽ bị rơi vào địa ngục; nếu Tỳ kheo nào thành tựu bốn pháp: tự mình từ bỏ, khích lệ người khác từ bỏ, chấp nhận từ bỏ và tán thán từ bỏ, thì sẽ sanh lên cõi trời.
Tâm Hướng Phật/St!