Chúng ta không thể thọ nghiệp báo thay cho bất kì người nào, cũng không ai có thể thọ báo thay chúng ta. Mỗi người phải dựa vào sự nỗ lực của bản thân…
Mọi việc khổ vui trong kiếp hiện tại của chúng ta đều do nghiệp quá khứ và hiện tại chi phối. Nghiệp lành thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ, chúng ta chỉ biết sợ khổ, cầu vui mà không biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành. Thế chẳng khác nào kẻ sợ bóng mà cứ đứng ngoài trời nắng, muốn nghe nhạc mà bịt lỗ tai. Một khi nghiệp quả đến, chúng ta dù muốn dù không, tất nhiên cũng phải chịu. Bởi nó là kết quả do hành động của chính mình đã tạo. Mình làm, rồi mình chịu, đó là lẽ công bằng hợp lý của kiếp người.
1. Nghiệp báo là gì?
Nghiệp báo nói đủ là nghiệp quả báo ứng. Bởi vì nghiệp nhân chúng ta đã gây thì nghiệp quả phải đến. Sự báo đáp thù ứng cân xứng nhau giữa nghiệp nhân và nghiệp quả. Trước tiên chúng ta cần biết chữ nghiệp.
Nghiệp: là dịch nghĩa chữ Karma tiếng Phạn, chỉ hành động tạo tác theo thói quen của mỗi người. Nghiệp có nghiệp thiện, nghiệp ác, định nghiệp, bất định nghiệp… Nghiệp thiện là hành động lành đem lại sự an lạc cho chúng sanh. Nghiệp ác là hành động dữ làm đau khổ chúng sanh. Ðịnh nghiệp là hành động hoặc lành hoặc dữ có cộng tác với ý thức tạo thành nghiệp quyết định. Bất định nghiệp là hành động hoặc lành hoặc dữ không cộng tác với ý thức nên thành nghiệp không quyết định.
Báo: là đền trả một cách công bằng, không sai chạy, không tiêu mất. Chúng ta có hành động lành hay dữ, kết quả của hành động ấy sẽ đến, hoặc sớm hay muộn thôi. Thí dụ chúng ta mắng chửi người là hành động dữ, người ấy sẽ mắng chửi lại ngay khi đó, hoặc thời gian khác, khó tránh khỏi. Sự thù đáp cân xứng gọi là báo. Báo có chia ba thứ: hiện báo, sanh báo và hậu báo. Hiện báo là quả báo hiện tại, những hành động lành hay dữ ngay trong đời này chịu quả báo. Sanh báo là quả báo đời sau, hành động tốt xấu của ba nghiệp, đến đời sau mới chịu quả báo. Hậu báo là về sau lâu xa mới chịu quả báo. Ví như vào đầu mùa mưa, chúng ta đồng thời gieo trồng hạt đậu phộng, trồng cây chuối, trồng cây mít. Ðến ba tháng sau, chúng ta được kết quả có đậu phộng. Sang năm, chúng ta mới kết quả có chuối. Song ba bốn năm sau, chúng ta mới được kết quả có mít. Như thế, hành động đồng thời mà kết quả sai biệt, tùy loại khác nhau. Nếu chúng ta đòi hỏi ba thứ phải kết quả đồng thời là ngu xuẩn.
Từ đâu tạo thành nghiệp?
Nghiệp từ thân, miệng, ý chúng ta tạo nên. Bởi thân miệng ý chúng ta làm lành, nói lành, nghĩ lành nên tạo thành nghiệp lành. Thân miệng ý chúng ta làm dữ, nói dữ, nghĩ dữ tạo thành nghiệp dữ.
Thế nên, chúng ta chủ nhân tạo nghiệp cũng chính chúng ta là chủ nhân thọ báo. Ngang đây chúng ta hãnh diện đã thoát khỏi mọi quyền lực thiêng liêng ban họa xuống phước. Chúng ta cũng hiên ngang thọ nhận tất cả quả khổ vui, mà không có một lời oán hờn than trách. Chúng ta khôn ngoan biết chọn lựa nghiệp nhân nào mình thích mà làm, không còn mù quáng làm càn bướng. Ðây là sự trưởng thành, khi rõ nghiệp từ đâu có.
Từ đâu có báo ứng?
Sự báo ứng cũng chính nơi mình hiện ra. Mỗi khi chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ, mắt chúng ta thấy cảnh ấy, tai chúng ta nghe tiếng ấy, hạt giống lành dữ ấy đã rơi vào tàng thức chúng ta. Kẻ đối tượng bị chúng ta làm khổ vui cũng thế, do mắt thấy, tai nghe nên hạt giống biết ơn hay thù hằn đã rơi vào tàng thức của họ. Khi nào đó, cả hai gặp lại nhau thì hạt giống ân oán ấy trỗi dậy, khiến hai bên tạo thêm một lần nghiệp lành dữ nữa. Cứ thế tạo mãi khiến nghiệp càng ngày càng dầy, ân oán càng ngày càng lớn.
Như khi chúng ta gặp một người đang mắc phải cảnh khốn đốn cơ hàn, hình ảnh buồn thảm khổ đau của họ hiện bày đầy đủ. Chúng ta trong tay có đủ phương tiện, liền giúp họ qua cơn khốn đốn, lúc đó trên gương mặt khổ đau đã ngả sang gương mặt vui tươi, sáng sủa. Chứng kiến hiện tượng ấy, hạt giống vui tươi đã rơi vào tàng thức chúng ta.
Nếu mỗi ngày chúng ta đều gieo vào tàng thức những hạt giống vui tươi, đến khi thân này sắp hoại, chúng ta không còn đủ nghị lực làm chủ, những hình ảnh vui tươi ấy sẽ hiện đến với chúng ta, mời chúng ta đến cảnh vui tươi.
Ngược lại, mỗi ngày chúng ta cứ gieo rắc khổ đau cho người, những hạt giống khổ đau chứa đầy trong tàng thức chúng ta, đến khi hơi tàn, lực tận những hình ảnh đó sống dậy, đuổi bắt đánh đập chúng ta, khiến chúng ta phải chạy chui vào cảnh khổ. Ðó là nghiệp báo khổ vui của mai kia. Nghiệp báo không phải từ đâu đến, mà chính từ tàng thức chúng ta hiện ra.
2. Nghiệp báo của ai người ấy tự trả
Có một đệ tử bạch với Đức Phật rằng: “Ngài có thần thông và từ bi, vì sao vẫn còn nhiều chúng sinh phải chịu khổ vậy?”. Đức Phật dạy: “Ta tuy có sức thần thông, nhưng có bốn điều vẫn không thể thực hiện được:
Điều 1: Nhân quả không đổi thay, tự gieo nhân thì tự nhận quả, người khác không thể nhận thay.
Điều 2: Trí tuệ không thể cho, bất kỳ ai muốn có trí tuệ thì phải tự mình tu dưỡng.
Điều 3: Diệu pháp không thể diễn tả, chân tướng vũ trụ dùng ngôn ngữ không thể cắt nghĩa mà hiểu, chỉ có thể dựa vào thực chứng thôi.
Điều 4: Không có duyên thì không thể độ, người đã không có duyên thì họ không bao giờ nghe những lời nói chúng ta chân thành chia sẻ”.
Sinh tử của ai người ấy đoạn, nghiệp báo của ai người ấy tự tiêu trừ
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát; cho dù thân thiết như cha mẹ, anh em, cũng không thể thay thế cho nhau được. Song, nhất định sẽ có người thắc mắc, chúng ta thường nói đến việc hồi hướng công đức của mình cho thân tộc, bạn bè, há chẳng phải mâu thuẫn lắm sao? Kì thực không mẫu thuẫn, ví dụ người thân yêu của chúng ta vừa qua đời, bởi vì thần thức của người chết vẫn còn quanh quẩn bên thi thể, nên nếu chúng ta niệm Phật, thần thức người chết nghe được cùng niệm theo, do đó tự nhiên họ được lợi ích.
Cũng có người thấy bà con, bạn bè gặp chuyện chẳng lành, phát tâm giúp người ấy tiêu trừ nghiệp chướng bằng cách lạy Phật, như vậy có tác dụng gì không? Đương nhiên có. Nhưng đòi hỏi người được giúp phải có lòng tin vào việc làm của chúng ta, phải cùng làm chung với chúng ta, như vậy hiệu quả mới lớn, bằng không hiệu quả rất nhỏ. Đương nhiên, hiệu quả của việc lễ Phật sám hối không ai không thừa nhận, nhưng đừng nghĩ rằng bao nhiêu nghiệp báo của bản thân được chư Phật và Bồ Tát gánh hết rồi. Chư Phật, Bồ Tát không thể gánh nghiệp báo giúp chúng ta mà làm chứng cho lòng thành ăn năn hối cải của chúng ta. Ai có được niềm tin thanh tịnh vào Ba ngôi Tam bảo, cho dù có trả nghiệp, nhưng trả với tinh thần hoan hỉ, thân khổ mà tâm vẫn an vui, tự tại.
Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi chứng đạo quả giải thoát, Ngài lên cung trời Đâu Suất thuyết pháp cho thân mẫu, trở về hoàng cung thuyết pháp giáo hóa phụ vương, trợ giúp cha mẹ đều được giải thoát. Thần thông quảng đại như Đức cha lành Thích Ca Mâu Ni còn không thể giúp cha mẹ tiêu trừ nghiệp chướng, chỉ có thể hướng dẫn cha mẹ tu hành, huống gì hàng phàm phu nghiệp chướng chúng ta?
Chỉ có tự nỗ lực tinh tiến mới đoạn trừ được ác nghiệp, giải thoát luân hồi
Ai đã từng đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ thấy Tôn giả A-nan là một trong 10 đại đệ tử của Đức Như Lai, Ngài sám hối với Đức Phật rằng trước kia Ngài cho rằng mình ở bên Đức Thế Tôn, đến một lúc nào đó Đức Thế Tôn sẽ ban cho trí tuệ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi; nhưng Tôn giả đã sai lầm. Sau đó, nhờ sự tận tình chỉ dạy, dùng các phương tiện khéo léo, vạch rõ con đường giải thoát của Đức Như Lai, Tôn giả A-nan đã tìm thấy tâm trí tuệ thanh tịnh của mình, dựa vào khả năng giác ngộ của mình để thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Cho nên, chúng ta không thể thọ nghiệp báo thay cho bất kì người nào, cũng không ai có thể thọ báo thay chúng ta. Mỗi người phải dựa vào sự nỗ lực của bản thân, dụng công tu hành, chính niệm tỉnh thức, mới có khả năng giải thoát khổ đau thực sự. Rất nhiều người nghĩ rằng tu hành cũng có con đường tắt nhàn thân, trong thời gian ngắn có thể đạt đến đỉnh cao nhất của giải thoát là thành tựu Phật quả. Nếu dùng Phật pháp chính tín để phán xét, người ấy tự lừa mình và gạt người, thật đáng thương lắm thay! “Pháp sư Thánh Nghiêm”
Tâm Hướng Phật/Th!