Dưới đây là nội dung bài Sám hối khổ báo địa ngục A Tỳ – trích trong Tổng hợp Kinh sám hối do Hòa Thượng Thích Trí Thoát biên soạn.
Đức Phật dạy: “Trên đời có hai hạng người đáng quý nhất, một là người không mắc phải lỗi lầm gì, hai là người có lỗi nhưng biết sai và sửa chữa”.
Ít nhiều chúng ta thường mắc phải những lỗi lầm trong cuộc sống. Nhưng nhận ra lỗi sai và sửa lỗi sẽ khiến chúng ta nhận được sự kính trọng của người khác.
1. Sám hối là gì?
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Sám giả Sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối Kỳ hậu quá”, nghĩa là: Ăn năn lỗi trước, chừa bỏ lỗi sau. Vậy Sám hối đúng nghĩa theo Chánh Pháp là nhận biết được lỗi đã gây tạo, ăn năn sửa lỗi và hứa không làm những điều này về sau.
Sám hối theo nghĩa thông thường là xin lỗi. Xét về mặt xã hội, xin lỗi là một hành vi đạo đức của con người, khi họ đã gây ra những lỗi lầm và muốn được người bị tổn thương tha thứ. Xin lỗi là một hành động được ba mẹ, nhà trường dạy dỗ khi chúng ta còn bé và đó là điều cần thiết trong cuộc sống.
Các bậc Thánh hiền xưa đã dạy rằng: “Nếu mắc lỗi lầm thì công khai nhận lỗi đó, rồi tìm ra biện pháp và quyết tâm để sửa chữa. Thái độ đối với lỗi lầm như thế là thước đo một người chân chính, trung thực đáng cho mọi người tin cậy và kính trọng”.
2. Địa ngục A Tỳ là gì?
Địa ngục A Tỳ theo tiếng Hán Việt có nghĩa là Vô Gián (không gián đoạn) hay còn gọi là Vô Cửu. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: Ngục A Tỳ bị khổ lớn một ngày một đêm bằng năm mươi tiểu kiếp ở thế gian.
Cứ như vậy thọ mạng hết một đại kiếp. Người có đủ tội ngũ nghịch thì phải chịu tội năm kiếp. Hơn nữa, chúng sinh nào phạm bốn điều trọng cấm: ăn không của tín thí, phỉ báng, tà kiến, không biết nhân quả, đoạn học Bát Nhã, hủy mười phương Phật, ăn trộm của sư tăng, dâm dật vô đạo, hãm hiếp tịnh ni, hủy nhục người thân. Người đó phải chịu tội báo một trăm linh bốn ngàn đại kiếp, lại còn bị đưa vào mười tám cái vạc ở phương Đông để chịu khổ. Các phương Tây, Nam, Bắc cũng giống như thế”.
Trong Kinh Lương Hoàng Sám, Đức Phật dạy Ngài A Nan: Như chúng sinh nào giết cha hại mẹ, nhục nhã sáu giòng bà con, người ấy khi mạng chung chó sắt hả miệng, hóa làm mười tám bánh xe, giống như xe vàng, có bảo cái che trên. Hết thảy mũi lửa nhọn kia hóa làm ngọc nữ. Người có tội kia xa trông thấy, sinh tâm vui mừng. Nghĩ rằng: “Ta muốn đến đó chơi, Ta muốn đến đó chơi”. Khi đến rồi, thì bị gió phong đao xẻ thân, lạnh quá chừng. Tội nhân lại nghĩ: Há được lửa tốt, ngồi trên xe đốt lên mà hơ! Nghĩ như thế rồi thì liền chết. Trong giây phút lại thấy mình ngồi trên xe vàng ngắm xem ngọc nữ. Nhưng bị ngọc nữ cầm búa sắt chém thân. Dưới thân lửa bốc hừng hực, mau như chớp nhoáng, trong nháy mắt lại rơi vào a tỳ địa ngục.
Từ ngăn trên, chớp mắt đọa xuống ngăn dưới. Thân lớn đầy ngăn. Chó đồng cẩu lớn tiếng sủa lên và nhai xương nuốt tủy. Ngục tốt la sát cầm xoa sắt lớn xoa đầu bắt đứng dậy; lửa cháy khắp thân, cháy luôn thành a tỳ. Lưới sắt tuôn mưa dao. Dao theo lỗ chân lông vào trong thân thể, hóa làm vua Diêm Vương. Vua lớn tiếng bảo rằng: “Kẻ ngu si, giống ngục tốt kia, ngươi ở dương thế, bất hiếu với cha mẹ, tà mạng không đạo đức nên phải đọa vào chỗ này, gọi là A tỳ Địa ngục. Ngươi là người không biết ơn, không hổ thẹn. Ngươi chịu khổ não như thế có sướng không?” Nói rồi, biến mất.
Bấy giờ ngục tốt lại đuổi tội nhân từ ngăn dưới lên ngăn trên. Phải trải qua tám vạn bốn ngàn ngăn giữa mới qua khỏi lớp lưới sắt cuối cùng một ngày một đêm mới khắp a tỳ địa ngục. Một ngày một đêm ở địa ngục bằng sáu chục tiểu kiếp ở dương gian. Tội nhân sống như vậy trong địa ngục một đại kiếp.
3. Sám hối khổ báo địa ngục A Tỳ
Dưới đây là nội dung bài Sám hối khổ báo địa ngục A Tỳ – trích trong Tổng hợp Kinh sám hối do Hòa Thượng Thích Trí Thoát biên soạn.
Từ xưa vô lượng tội tình
Những khổ báo chướng quanh mình bủa vây
A Tỳ đạ ngục khổ thay
Như lời Phật dạy, chẳng ngày thoát ra.
Chịu bao thống khổ khảo tra
Quanh A Tỳ ngục, tường là sắt vây
Trên thì lưới sắt giăng đầy
Dưới thì rừng kiếm đao dầy đan nhau;
Bốn bề lửa dữ thổi vào
Tội nhân trong đó khác nào nướng quay
Cửa thành chó sắt bao vây
Nanh dài vuốt nhọn, mắt tầy ánh sao
Trên không chim sắt đua nhau
Móng gang mỏ thép, móc hầu tội nhân
Đầu trâu ngục tốt rần rần
Hét la đánh đập, chặt bầm phân thây
Lại thêm Xe, Kiếm, Đao, cầy
Trên không bổ xuống bầy nhầy ruột gan
Như vầy muôn tháng, ức năm
Sống thì chẳng được, chết càng không xong
Khổ báo như thế chẳng cùng
Con xin khẩn thiết hết lòng ăn năn
Còn bao khổ báo nghiệp nhân
Đọa vào địa ngục các tầng khác nhau
Khổ báo thân rã, chặt đầu
Vào nơi cây kiếm núi đao thọ hình
Khổ báo thiêu đốt thân mình
Nằm giường sắt nóng mặc tình kêu la
Khổ báo nghiền nát thịt da
Bánh đao xe lửa, nghiến cà nát thây
Khổ báo chưng nấu nướng quay
Chui vào lò lửa, tan thây vạc dầu
Khổ báo tạn phủ nát nhầu
Vào ngục nuốt sắt, uống dầu đồng sôi
Khổ báo xương nát, thịt rơi
Vào ngục cối sắt, xay người nát tan
Khổ báo ăn nói dối gian
Trâu đen cày lưỡi, miệng tràn máu tươi
Khổ báo nắng đốt rã rời
Giây đen địa ngục sáu thời xiết căng
Khổ báo ngập nước trôi sông
Chìm trong địa ngục tro hồng, phấn sôi
Khổ báo da nứt, thịt phơi
Chôn địa ngục lạnh đời đời giá băng.
Khổ báo tàn sát hung hăng
Địa ngục chim sắt, sói lang cắn nhầu.
Khổ báo đâm chém lẫn nhau
Địa ngục đao kiếm, móc hầu bầm thây
Khổ báo bị nướng bị quay
Địa ngục hầm lửa tối ngày đốt thui
Khổ báo kẹp nát hình hài
Địa ngục bánh sắt nghiến xay tanh bành
Khổ báo mổ xẻ thân mình
Đọa vào hắc nhĩ cực hình khảo tra
Khổ báo chém chặt banh da
Địa ngục núi thịt, mù lòa tối thui
Khổ báo thịt lủng xương lồi
Địa ngục cưa xẻ, khắp người đóng đinh
Khổ báo mổ cắt xé phanh
Địa ngục móc sắt, treo mình ngược chân
Khổ báo nóng nực thiêu thân
Địa ngục cháy đốt rần rần gào la
Khổ báo mờ mịt bao la
Muôn đời chẳng thấy ánh lòa núi vây
Khổ báo như dại như ngây
Ba ba bốn ngục đêm ngày lạnh căm
Bốn ngàn tám vạn ngục phân
Đêm ngày thống khổ muôn phần đớn đau
Khổ báo co ruột, rút đầu
Vót xương, nạo tủy biết đâu nói cùng
Nhốt giam lẫn lộn trùng trùng
Nhiều đời cha mẹ với cùng bà con
Ngay thân mình lúc chẳng còn
Cũng sa ngục đó oán hờn chứa chan.
Than ôi chẳng thể nghĩ bàn
Muôn phần thống khổ, vạn lần đau thương
Ngày nay sám hối mười phương
Chí thành cầu khẩn, cúng dường chư Tôn
Nguyện cho khổ báo ngàn muôn
Tất cả tan biến tận nguồn gốc xưa
Nguyện nhờ công đức chí thành
Ăn năn sám hối pháp lành hiện ra
Khổ báo địa ngục hằng sa
A Tỳ thành sắt thấy là tịnh thanh.
Ác đạo cũng chỉ là danh
Kẹp cùm địa ngục biến thành an vui
Núi đao, cây kiếm, vạc sôi
Biến thành Cam lộ, mát tươi sen hồng
Đầu trâu mặt ngựa tàn hung
Biến thành Bồ tát đầy lòng từ bi
Tội nhân ngục tốt Thiết Vi
Thảy đều thoát khổ, tức thì an vui
Phát tâm vô thượng đời đời
Lâng lân hạnh phúc cõi trời Thiền na
Con xin đảnh lễ Phật đà
Quy y Tam Bảo Ta Bà mười phương.
Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần)
Tâm Hướng Phật!