Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Ngũ trược ác thế là gì? Ngũ Trược ác thế thệ tiên nhập là gì?

Ngũ trược ác thế là năm sự ô trược xấu ác thiêu đốt thế gian và con người, năm sự ô trược đó là: Kiếp trược, Kiến trược, Chúng sinh trược, Mạng trược, Phiền não trược.

1. Ngũ trược ác thế là gì?

Ngũ trược là năm thứ dơ dáy ở cõi Ta Bà, Đức Thế Tôn thường gọi cõi Ta Bà là cõi ác lụy, tràn đầy năm thứ trược. Song Ngài vì lòng từ bi mà giáng thế, giáo hóa chúng sinh. Thuyết cho họ biết cõi Tịnh Độ của Phật để cho họ có thể tu hành vãng sanh về cõi đó.

Ngũ trược ác thế là năm sự ô trược xấu ác thiêu đốt thế gian và con người, năm sự ô trược đó là: Kiếp trược, Kiến trược, Chúng sinh trược, Mạng trược, Phiền não trược.

Ngũ trược ác thế gồm 2 loại: Ngũ trược ở phạm trù Thế Giới và Ngũ trược trong Thân Tâm của chúng sanh. Kinh dạy: “Vào thời tăng kiếp, khởi đầu tuổi thọ trung bình của con người được 10 năm, sau đó cứ trải qua 100 năm thì tuổi thọ lại tăng thêm được 1 năm; cứ như vậy tăng mãi cho đến khi tuổi thọ con người đạt đến 84.000 năm thì dừng.

Đọc thêm: Cõi Ta Bà là gì, ở đâu? Tại sao gọi cõi Ta Bà là ngũ trược ác thế?

Từ đó về sau cứ trải qua 100 năm thì tuổi thọ lại giảm đi 1 năm, cứ như vậy giảm mãi cho đến khi tuổi thọ chỉ còn 10 năm là thấp nhất. Khi tuổi thọ trung bình của con người là 10 năm, lại bắt đầu tăng dần như trước. Sự biến đổi tăng giảm này cũng giống như trong năm có những lúc ngày dài đêm ngắn, lại có những lúc ngày ngắn đêm dài, cứ như vậy mà tuần hoàn mãi mãi không dứt”.

Ngũ Trược ác thế xuất hiện vào thời giảm kiếp, khi tuổi thọ con người giảm xuống còn 200 tuổi. Trước thời kỳ Ngũ trược, Thế gian và tâm tánh con người đều vô cùng trong sáng và thanh tịnh. Còn trong thời kỳ ngũ trược, Thế gian và con người đều trở nên bất tịnh, cấu uế và xấu ác.

Kinh dạy rằng: Thời ngũ trược ác thế bắt đầu khi tuổi thọ con người giảm xuống còn 200 tuổi. Sau khi đức Phật nhập niết bàn và giáo pháp bắt đầu suy yếu, ma đạo sẽ vô cùng thịnh hành trong thời ngũ trược này. Vậy năm món trược ác là như thế nào?

a. Kiếp trược

Xếp đầu tiên trong Ngũ trược ác thế, Kiếp trược (Kalpa-kaṣāya) là “Thời gian hoặc thời đại biến đổi hỗn loạn không ngừng.” Làm sao mà kiếp trở nên bị hỗn trược? Là vào thời kì ngũ trược ác thế, các nghiệp ác của chúng sinh làm cho kiếp trở nên bị hỗn trược.

Theo Luận Địa Trì: “Nếu vận kiếp đói kém xảy ra, vận kiếp dịch bệnh phát sinh, vận kiếp chiếc tranh nổi lên, thì gọi là Kiếp trược”

b. Kiến trược

Kiến trược (Dṛṣṭi-kaṣāya). Kiến là thấy, trược là tà vạy. Kiến trược là sự thấy biết tà vạy, sai lầm: Sai cho là đúng, đúng lại cho là sai. Trong quá khứ, mọi người đều thấy mọi vật đều thanh tịnh và tinh khiết. Nhưng khi đến thời kỳ Ngũ trược ác thế, thì người ta thấy môi trường chung quanh không còn thanh tịnh và tinh khiết nữa. Kiến trược là kết tinh của năm tà kiến, lấy ngũ lợi sử làm thể. Lợi có nghĩa là nhanh, sắc bén. Ngũ lợi sử tức là năm quan niệm sai lầm: Thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ, kiến thủ, tà kiến.

Theo Luận Địa Trì: “Nếu ở đời này lúc pháp hoại diệt- pháp suy tàn, Tượng pháp dần dần thay đổi, tà pháp trở lại sinh sôi, thì gọi là Kiến trược.”

Thân kiến

Thân kiến là mọi chúng sinh đều chấp rằng mình có thân. Họ yêu mến thân mình.”Ta phải săn sóc thân mình, đừng để điều gì xảy đến cho tôi cả.” Họ xem thân thể mình là điều tối quan trọng. Họ muốn ăn ngon, mặc đẹp, sống tiện nghi. Họ luôn luôn xem thân thể mình như là viên ngọc quý.

Đúng rồi! Thân thể quý vị là viên ngọc quý, nhưng nếu quý vị sử dụng sai mục đích, quý vị sẽ biến nó thành một thứ chẳng khác gì hơn phân người. Sao vậy? Vì quý vị chỉ để ý đến phương diện hời hợt nông cạn bên ngoài, mà không khám phá hết được hạt ngọc chân thật bên trong tự tánh. Thế nên những gì quý vị biết tựu trung chỉ là thân xác và quý vị không thể nào buông bỏ nó xuống được. Từ sáng đến tối, quý vị chỉ bận rộn vì thân thể mình. Đó là thân kiến.

Biên kiến

Biên kiến là thích bên nầy hoặc bên kia. Nếu quý vị không nghiêng về không (vô) thì sẽ nghiêng về có (hữu). Nói chung, biên kiến là không hợp với nghĩa Trung đạo.

Giới cấm thủ

Giới cấm thủ Giới luật sẽ trở thành tệ hại khi căn cứ vào một cái gì chẳng phải là nhân mà cho đó là nhân. Những sai lầm như thế dẫn đến lối tu khổ hạnh vô ích. Trước đây tôi đã giảng giải có người bắt chước thói quen của loài bò hoặc chó, hoặc ngủ trên giường đinh, hoặc làm theo lối tu khổ hạnh vô ích. Những ai làm theo như vậy gọi là mắc vào giới cấm thủ. Họ nghĩ rằng: ‘Hãy nhìn tôi đây! Chẳng có ai làm được như tôi, các ông chẳng ai bằng tôi cả.’ Họ luôn luôn có suy nghĩ tự cao ngã mạn nầy trong tâm.

Kiến thủ

Kiến thủ có nghĩa là chấp vào quan niệm của mình là đúng. Quan niệm sai lầm về một cái gì chẳng phải là quả mà cho đó là quả. Người mắc phải kiến chấp nầy cho rằng họ đã chứng quả trong khi thực sự họ chẳng được điều gì cả.

Tà kiến

Tà kiến là gì? Những người có tà tri tà kiến thường cho rằng không có nhân quả, bài báng chánh pháp, tự mê hoặc mình và làm cho người khác mê lầm. Năm thứ vọng kiến trên đây khiến cho tâm chúng sinh tối tăm mê loạn, tự tánh vẩn đục, cho nên gọi là ngũ trược.

c. Phiền não trược

Xếp thứ ba trong Ngũ trược ác thế, Phiền não trược là sự si mê tham đắm điên đảo, do do ngũ độn sử kết thành: Gồm tham, sân, si, mạn và nghi.

  • Tham là chỉ cho sự tham muốn một cách không thể thỏa mãn được những cảm giác dễ chịu. Quý vị thường tham muốn những gì mình thích.
  • Sân là không thích những điều mình cảm thấy khó chịu.
  • Si là những vọng tưởng điên rồ.
  • Mạn là lòng tự mãn và kiêu ngạo, cảm thấy rằng “Ta là bậc nhất.” và “Chẳng có ai bằng ta.” Người ngạo mạn thường không lịch sự đối với người khác.
  • Nghi là nghi ngờ chánh pháp, thay vì vậy lại thích tà pháp, không tin vào chánh pháp nhưng lại tin vào các pháp không chân chính.

Đây là ngũ độn sử, tạo thành thứ trược thứ ba tức là phiền não trược. Sự có mặt của ngũ độn sử nầy đã tạo nên vô số phiền não. Theo Luận Địa Trì: “Nếu những chúng sanh này tăng thêm điều phi pháp, ham thích dao kiếm, bố thí đồ dùng chiến tranh, bố thí tranh chấp quyền lợi, đấu đá làm loạn, nịnh hót quanh co, lừa dối không thật, nói năng xằng bậy, tiếp nhận đủ tà pháp, và phát sinh những pháp bất thiện xấu xa khác, thì gọi là phiền não trược.”

d. Chúng sinh trược

Chúng sinh trược là sự sanh tử hỗn loạn không ngừng. Chúng ta nay cũng đừng cố diễn tả nó làm gì. Sao vậy? Chúng sinh vốn là quá dơ bẩn, quá bất tịnh, quá cấu uế. Quý vị đừng nên cho rằng mình là hạng chúng sinh cực kỳ lớn. Chúng sinh vốn là rất tối tăm và u mê đần độn. Chẳng có gì tốt đẹp về chúng sinh cả. Nhưng chúng sinh lại nghĩ về chính mình như một cái gì rất đặc biệt, mặc dù thực sự họ cấu thành do từ bốn thứ trược nêu trên.

Theo Luận Địa Trì: “Nếu các chúng sanh không biết đến cha mẹ, không biết đến Sa môn-Bà la môn, và người bề trên trong họ hàng, không tu dưỡng nhân nghĩa và đạo lý, không làm những điều đáng làm, không sợ quả báo ác nghiệp của đời nay-đời sau, không tu bố thí ban ơn, không làm việc công đức, không tu trai pháp, không trì cấm giới, thì gọi là chúng sanh trược.”

e. Mạng trược

Mạng trược là kiếp sống của chúng sanh trên thế gian ngày một mong manh, ngắn ngủi và bất tịnh. Vào thời ngũ trược ác thế, tâm tính chúng sinh cang cường, khó điều phục, nên vào thời kỳ ấy, chư Phật thường xuất hiện để giáo hóa chúng sinh. Theo Luận Địa Trì: “Chúng sanh đời này đoản thọ, người cao nhất thọ được một trăm năm, đây gọi là Mạng trược.”

Ngũ trược ác thế là gì? Ngũ Trược ác thế thệ tiên nhập là gì?

2. Ngũ Trược ác thế thệ tiên nhập là gì?

Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập nghĩa là: Việc đầu tiên thề sẽ xâm nhập vào thời ác thế. Đây là lời Ngài A nan phát nguyện trước hết sẽ thâm nhập vào ngũ trược ác thế để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đi vào trong ngũ trược ác thế để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh. Nay ngài A nan có lẽ cũng muốn theo nguyện lực to lớn Đức Phật và làm theo. A nan không sợ ngũ trược ác thế đầy nhiễm ô, dù thế nào đi nữa, ngài cũng đến đó để giáo hóa chúng sinh.

“Nếu còn một chúng sinh nào chưa thành Phật. Nguyện chẳng tự mình chứng niết bàn.” Nếu dù chỉ còn một chúng sinh chưa thành Phật, con cũng sẽ chưa thành Phật. Con sẽ không được công nhận như là người đã đạt được quả vị. Con sẽ không nhập niết bàn. Đây cũng giống như lời nguyện của ngài Địa Tạng Bồ Tát.

3. 10 điều khó ở cõi Ta Bà so với Cực Lạc

Bồ tát Long Thọ nói: “Tu hành trong cõi Ngũ trược gọi là khó hành đạo, như người què đi trên đường hiểm trở, một ngày chẳng đi quá mấy dặm. Tu hành ở Tịnh Độ gọi là dễ hành đạo, như kẻ phàm phu nương vào sức mạnh của Chuyển Luân Vương, trong một ngày đi khắp tứ thiên hạ”.

Nay đem 10 điều khó ở cõi Ta Bà để so sánh với mười điều dễ ở Tịnh Độ:

1. Ta-bà không thường gặp Phật. Phật Thích-Ca đã diệt độ, tà pháp mạnh mẽ; Cực Lạc thì Phật thường chẳng diệt, hiện đang làm giáo chủ.

2. Ta-bà mạt pháp nhiễu nhương, có nhiều ngoại đạo, dù bàn Phật pháp nhưng đa số nghiêng lệch sai lầm; Cực Lạc thì Phật và Bồ-tát, nước, chim, cây rừng thường tuyên thuyết Diệu pháp.

3. Ta-bà bạn bè tà ác, mong cầu lợi dưỡng, làm mê lầm người tu hành đọa vào ba đường ác; Cực Lạc thì Quán Âm, Thế Chí làm bạn thù thắng, các bậc Thượng thiện nhân ở chung một nơi.

4. Ta-bà có các loài ma não loạn, phá hoại chánh pháp; Cực Lạc tuy có Thiên ma nhưng đều hộ trì chánh pháp, giúp người tu hành mau được thành tựu.

5. Ta-bà luân hồi trong sáu nẻo, như bánh xe xoay vòng không có ngày dừng nghỉ; Cực Lạc thì hoa sen hóa sinh, không còn luân chuyển trong đường sinh tử khổ đau.

6. Ta-bà qua lại ba cõi theo nghiệp chịu quả báo, tuy sinh lên cõi Trời nhưng khó tránh con đường ác; Cực Lạc thì danh từ của ba đường ác còn không nghe, huống chi có thật.

7. Ta-bà trần duyên ác trược, thường làm chướng ngại đối với việc xuất thế; Cực Lạc thì lầu vàng điện ngọc, áo đẹp cơm ngon đều làm phương tiện trợ giúp tu hành.

8. Ta-bà con người sống trăm năm nhưng phần nhiều chết yểu, thời gian mau chóng, đại đạo khó thành; Cực Lạc thì tuổi thọ của chúng sinh ngang bằng với Phật.

9. Ta-bà tu hành phải đoạn trừ Kiến hoặc, Tư hoặc mới có thể được Bất thối chuyển. Người mới tu chưa tránh khỏi sự thối chuyển đọa lạc; Cực Lạc thì chúng sinh khi sinh về đều vào Chánh định tụ mãi không còn thối chuyển.

10. Ta-bà người tu hành trải qua muôn kiếp khó thành, như các vị đồ đệ nghe pháp trong thời Phật Đại Thông, thối chuyển Đại thừa chấp vào Tiểu thừa, trải qua vô số kiếp còn ở bậc Thanh văn; Cực Lạc thì chỉ một đời này thường theo Phật học, tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng.

Mười điều khó và dễ nói trên đây, thật cách xa nhau như trời với vực. Nếu cậy vào sức mình thì chỉ luống uổng tự nhọc nhằn. Nhưng nếu nương nhờ vào duyên thù thắng thì được sự lợi ích cao rộng.

Tâm Hướng Phật/TH!

Bài viết cùng chuyên mục

Tiêu hủy vọng tưởng điên đảo, phá trừ mê lầm nhỏ nhiệm vi tế

Định Tuệ

Tịnh nghiệp tam phước là gì? Cẩn thận với tà kiến về tịnh nghiệp

Định Tuệ

Phật tử tại gia nên tụng kinh gì để có được hiệu quả tốt nhất?

Định Tuệ

Chúng ta có hai ân nhân không thể quên trong đời này

Định Tuệ

Vì sao chúng ta phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà?

Định Tuệ

Pháp môn Tịnh độ ở Việt Nam

Định Tuệ

Giác ngộ pháp gì ứng dụng tu Ngũ thừa Phật giáo?

Định Tuệ

Nhân quả rất đáng sợ, phàm phu chúng ta phải cảnh giác

Định Tuệ

Muốn được sanh về Tây Phương, phải dứt trừ phiền não

Định Tuệ

1 bình luận

TS. HỒ VĂN KHÁNH, PD CHÂN NHƯ 9 Tháng tám, 2022 at 23:38

KHỔ LUYỆN HIỀN TÀI. BẤT CỨ NGƯỜI TU NÀO CŨNG PHẢI TRẢI QUA KIẾP NHÂN SINH. VÌ VẬY HÃY TẬN DỤNG TỐT, HIỆU QUẢ THÂN NGƯỜI KHÓI ĐƯỢC BẰNG SONG VẬN LƯỠNG NGUYÊN (THÂN VÀ TÂM, LỢI VÀ HẠI… TỰU TRUNG LÀ ÂM VÀ DƯƠNG) TRÊN NỀN TẢNG VĂN HÓA THÁNH HIỀN TRUYỀN THỐNG THÌ CHẮC CHẮN CÒN NHANH HƠN CHUYÊN TU TRONG CÕI CỰC LẠC. VÌ CHỈ CÓ KHỔ ĐAU MỚI CÓ ĐỘNG LỰC TINH TIẾN MẠNH MẼ, QUYẾT TÂM SẮT ĐÁ VÀ ĐẠI LỰC TINH TIẾN. A DI ĐÀ PHẬT!

Viết Bình Luận