Việc lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học thâm sâu. Trước kia sư phụ Sám Công nói: “Lạy Phật là sự vận động tốt nhất, còn tốt hơn cả khí công và thái cực quyền”.
Trên đời tuyệt không ai buộc tôi phải lạy Phật, trái lại mọi người đều khuyên tôi không nên để cho quá mệt mỏi. Đây là do tôi tự phát nguyện, đã phát nguyện thì phải thực hiện, dù khổ cũng phải cố cho được. Nhưng thật kỳ lạ, đây hoàn toàn không phải khổ, mệt như mọi người nghĩ; trái lại hình như càng lúc, càng không mệt.
Mỗi ngày lạy ba trăm lạy, tôi phải chia làm nhiều lần mới lạy xong, về sau không biết tại sao càng lạy càng thấy nhẹ nhàng. Tôi cũng không nghĩ cần phải đẩy nhanh tốc độ, chỉ là do trọng lượng thân thể của tôi giảm bớt rất nhiều. Tôi có cảm giác như có vòi nước rưới vào chỗ khô, làm sảng khoái, chứ không như khi mới dội nước, bùn đất chưa trôi đi được. Một hôm, bỗng nhiên tôi lạy một lần được ba trăm lạy mà không còn biết mệt, không khó thở, giống như vừa mới lạy cái lạy đầu tiên.
Trước đây tôi nghe nói có một vị pháp sư mỗi buổi sáng đều lạy ba ngàn lạy; hồi đó tôi không tin. Người ta bảo Ngài lạy xong ba ngàn lạy rất nhanh, tôi quả thực khó tin, vì chính tôi lạy rất chậm chạp nặng nề, có cố gắng cho nhanh cũng không có cách chi lạy xong ba ngàn lạy.
Ngoài ra cũng có người khác thông tin như tôi, bèn đến tận nơi để xem vị Pháp sư lạy Phật và đếm giúp ngài, thì thấy ngài lạy bộ không hối hả, bộ dạng rất thong dong, chứ không có vẻ cố tăng tốc độ, chỉ rất nhẹ nhàng, động tác uyển chuyển giống như không hề có trọng lượng. Người ấy đếm đủ ba ngàn lạy, không thiếu lạy nào, sau đó tôi mới tin rằng “khi vọng niệm của người ta càng giảm, càng ít thì sự gánh chịu của thân thể càng ít, càng nhẹ nhàng, hoạt động càng không bị chướng ngại, do đó mới có thể nhanh như thế”. Trong cửa Phật, có rất nhiều vị pháp sư đã âm thầm dụng công như thế, xem ra tôi thật lười biếng.
Việc lạy Phật hàm chứa nguyên lý y học thâm sâu.
Trước kia sư phụ Sám Công nói: “Lạy Phật là sự vận động tốt nhất, còn tốt hơn cả khí công và thái cực quyền”. Tôi nghe thế nhưng chưa hiểu, về sau, khi lạy Phật tôi mới phát hiện rất nhiều điểm tốt lành trong việc lạy Phật, đồng thời cũng thấy mối liên hệ tương ứng của việc lạy Phật và nguyên lý y học, tôi mới dần dần hiểu ra câu nói ấy. Lạy Phật khiến thân, khẩu, ý của chúng ta vận động một cách thanh tịnh, có thể tương ứng với Đức Phật thì đương nhiên cũng có thể trị bệnh. Về sự liên hệ giữa việc lạy Phật và y học, chúng ta có chuyên đề riêng để thảo luận, ở đây chỉ đơn giản nói vài câu thôi.
Tinh thần của con người hiện đại rất căng thẳng, bị nhiều áp lực, cơ bắp của toàn thân không nhạy cảm là do bị buộc chặt, hơn nữa vì thiếu vận động, toàn đốt xương sống cứng đơ rất khó uốn cong.
Về mặt y học, chỗ nối giữa hai đốt xương sống là chỗ đi qua của các dây thần kinh và mạch máu. Các thần kinh từ tủy sống đi ra đảm trách việc quản lý các nội tạng, nếu các đốt xương sống nằm sát nhau quá thì có thể ép vào mạch máu và các dây thần kinh. Mạch máu và thần kinh của đốt nào bị chèn ép thì đốt ấy sẽ có vấn đề. Công năng nội tạng mà đốt xương ấy phụ trách sẽ dần dần bị hư hại. Do vì tư thế không đúng, cơ bắp bị chèn ép khiến cho xương sống cũng bị ép, máu không lưu thông, thần kinh cũng bị ảnh hưởng, cho nên không thể cung cấp cho các tế bào nội tạng đủ chất dinh dưỡng và dưỡng khí. Hễ tế bào thiếu dưỡng khí thì dễ biến thành tế bào ung bướu có mối liên quan rất lớn. Vì vậy các tư thế đi, đứng, ngồi nằm, các động tác và sự hô hấp của chúng ta hàng ngày có ảnh hưởng rất lớn đối với bệnh tình.
Nếu động tác lạy Phật mà đúng thì có thể giúp cho việc trị liệu, vì trong khi lạy Phật thì phải cúi đầu xuống một cách mềm mại cho đến khi cằm chạm vào xương ngực. Động tác này có thể làm cho bảy đốt xương cổ giản ra, từ đó có bảy lợi ích sau đây:
1) Lưu lượng máu được đầy đủ: chỉ có hai đôi mạch máu cung ứng cho não bộ, đôi trước là động mạch cổ, đôi sau là động mạch chùy. Động mạch này khiến cho động mạch chùy không bị chèn ép, khiến máu chảy dễ dàng cung cấp dưỡng khí đầy đủ, cải thiện công năng của não.
2) Tủy dịch của não, xương sống được lưu thông: tủy dịch não, xương sống tuần hoàn bên ngoài tủy sống và não, vào đến các tầng dịch thể của não thất bên trong. Có bốn công năng (1) điều tiết sức ép của não, (2) bảo hộ não, (3) cung ứng chất dinh dưỡng, (4) thải các phế vật. Nếu tư thế của đầu, cổ không tốt, góc độ không đúng, sự lưu động ấy gặp trở ngại thì não và tủy sống như ngâm trong nước dơ, áp lực của não cũng không bình thường, dễ bị đau đầu, choáng đầu. Động tác lạy Phật có thể giúp cho tủy dịch của não và tủy sống lưu thông dễ dàng, khiến công năng của não được tốt đẹp, có thể chỉ huy khéo léo các tế bào của toàn thân.
3) Khiến cho các dây thần kinh từ xương cổ đi ra không bị ép, công năng tốt đẹp; dây thần kinh ở các đốt xương cổ có quan hệ mật thiết với công năng ngũ quan, trái tim, huyết áp, khí quản, mắt, nước bọt … dây thần kinh cánh tay cũng từ xương cổ, nếu bị chèn ép thì cũng sinh ra các chứng đau tê.
Nếu thường lạy phật cúi đầu mền mại, kéo dãn các đốt xương cổ thì có thể trị các chứng bệnh tại các bộ vị nói trên. Khi cúi xống lạy Phật (cúi đầu, cong lưng, co đầu gối) là dùng gót chân làm chuẩn, chuẩn gót chân là trọng tâm vật lý tự nhiên thì cơ bắp không bị căng, mất sức, bộ ngực và bụng đưa ra rồi sau đó kéo lui (cho đến khi thấy được gót chân sau) thì mới gập lưng xuống, tốt nhất là gập cho đến khi bụng sát vào vế, động tác này có thể làm cho cơ bắp ở hai bên cột sống dãn ra, khiến các khớp nối được kéo ra. Làm như thế khiến nội tạng và mạch máu được tốt. Khi lạy xuống trong động tác quì, thân tay động nhưng trọng tâm vẫn được giữ không độ (nhứt tâm), (định trong trọng).
Trong khi lạy Phật chớ nhắm mắt, nên thu nhiếp nhãn thần, tự quán chiếu mình. Nếu nhắm mắt thì tư thế không ổn định, công năng điều chỉnh huyết áp cũng có thể bị ảnh hưởng. Hơn nữa, mở mắt và nhắm mắt thì “sóng não’ không giống nhau. Chúng ta lạy Phật là khai phát cái công năng của “giác tính”, khai phá cái công năng cao cấp của bộ não, chứ không phải sùng bái một cách mù quáng.
Khi lạy Phật thì hai bàn tay chắp lại, nhưng trước khi quì xuống thì trước tiên buông thõng hai tay, đặt xuống đất làm điểm tựa, sau đó mới co đầu gối quì xuống, lòng bàn chân phải lật lên trên, người ngồi vào chỗ nghiêng vào trong của gót chân sau (kéo giãn nhượng chân, đồng thời kích thích, hoạt hóa điểm phạn xạ của bạch huyết cầu); sau đó cúi phần trên của thân thể cho ấn đường giữa hai mày chạm đất, cần chú ý từ đầu đến cuối phải mở mắt. Động tác này có thể làm cho cột sống của chúng ta được vững mạnh. Vì người ta cứ muốn duy trì tư thế đứng cho nên thường bị tức hông đau lưng, một số người khi đứng, phần bụng bị căng thẳng, cho nên phần xương sống phía dưới thường cong về phía bụng, như thế sẽ khiến các đốt cột sống ở phần này ép chặt vào nhau, gây trở ngại (ảnh hưởng đến các bộ phận nằm trong bụng như : gan, dạ dày, thận, ruột non, ruột già, bàng quang …).
Lạy Phật có thể loại trừ những chướng ngại này, đó cũng chính là tiêu trừ nghiệp chướng, làm vững mạnh cột sống, khiến nó hướng trở lại về phía lưng, cũng chính là mở rộng các khớp xương sống đang bị dính nhau, loại trừ sức đè ép.
Khi quì lạy Phật, đầu chạm đất, đồng thời hai tay nhẹ nhàng đưa về phía trước, chuẩn bị tiếp Đức Phật, tay đưa ra cách đỉnh đầu một nắm tay, đồng thời mở rộng tối đa phần dưới nách, nhằm mở rộng dung lượng tim của chúng ta và gia tăng sức hoạt động của phổi, cũng là để gia tăng sức chuyển đổi không khí của phổi (gia tăng sức chứa không khí). Sau khi duỗi tay ra phía trước đầu, lật bàn tay lên trên, động tác này trỏ ý “tôi quyết định chuyển biến tâm cảnh của tôi để nghinh đón ánh sáng của đức “Phật”, cũng trỏ ý “Tôi đem hết tâm tôi mà cúng dường đức Phật, không giữ lại một chút nào”.
Lúc này cần phải quán chiếu vào đầu ngón tay của chúng ta, giống như cánh hoa sen mền mại, nhẹ nhàng, không nên dùng sức, dùng hoa sen của hai bàn tay để tiếp đón đức Phật, động tác này nhắc nhở chúng ta hoa sen nở không phải dựa vào sức mạnh bên ngoài, mà dựa vào sức mạnh tự giác bên trong. Tâm hoa của chúng ta nở ra cũng như thế. Bây giờ nên quán tưởng đức Phật đại từ đại bi đang đứng trên hoa sen hai bàn tay của chúng ta mà tiếp nhận lễ bái. Chúng ta có thể đối mặt cùng đức Phật, điều này thật hân hoan hỉ lạc biết bao nhiêu! Lúc này một nụ cười của nội tâm tự nhiên xuất hiện. Chúng ta lại quán tưởng đức Phật phóng ánh sáng thanh tịnh, từ bi đến đỉnh đầu của chúng ta, khiến toàn thể thân tâm chúng ta đều thanh tịnh, quang minh. Tất cả bệnh tật đau đớn giống như bóng tối, gặp được ánh sáng thì không còn tối tăm. Chúng ta lại quán tưởng ngoài chúng sinh đều cùng chúng ta lạy Phật, tắm gội ánh sáng của đức phật.
Tất cả chúng ta đều đang hít thở, nhưng thật ra rất ít người biết hít thở như thế nào, rất ít người có được sự hít thở hoàn chỉnh, triệt để. Tại sao như thế? Chúng ta có thể quán sát trạng thái của người đang bận rộn, hoặc tâm đang chú ý về một sự việc gì đó bên ngoài, thì thấy rằng hô hấp của người ấy bị ảnh hưởng, biến thành sự hô hấp rất cạn, rất ngắn, thậm chí có khi ở trạng thái gần như ngưng dứt, nhất là khi tâm tình phiền não, giận dữ, loại hô hấp này sẽ khiến không khí dơ bẩn trong cơ thể không thể thoát ra được để thay đổi không khí tốt tươi. Cho nên lâu sau sẽ tích lũy không khí ô nhiễm trong thân thể, thiếu thốn dưỡng khí. Tế bào thiếu dưỡng khí thì dễ sanh ra ung bướu.
Chúng ta lạy Phật thì có thể điều chỉnh hô hấp, khiến cho hô hấp được triệt để và hoàn toàn. Lạy Phật cũng là môn khí công rất tốt vậy. Động tác lạy xuống khi chúng ta lạy Phật có thể giúp chúng ta tống khí ra triệt để, khiến không khí ô nhiễm của phổi và toàn thân được tống ra hết. Trong khi năm vóc sát đất, vì toàn thân buông lỏng, cơ bắp buông lỏng không bị trở lực nào. Trong tình trạng không bị trở lực, cơ bắp tự nhiên sẽ có được sự hấp khí rất sâu, rất hoàn toàn.
Theo nguyên lý động lực học về huyết dịch, máu lưu chuyển cũng do tác dụng hấp dẫn của sự hấp khí sâu, máu sẽ trở về tim một cách thuận lợi, để rồi lại từ tim mà đi ra. Mỗi tế bào của chúng ta đều nhờ động tác lạy Phật mà có được nhiều dinh dưỡng và dưỡng khí cùng với không khí an lạc, hoan hỉ của thế giới Cực Lạc. Khi đang lạy mà muốn đứng dậy thì phải nhân lúc hít mà vận dụng sức để đứng lên, như thế mới được nhẹ nhàng mà không phí sức. Gọi là “vĩnh viễn an lạc vô ưu” chính là từng lúc an lạc vô ưu trong hiện tại.
Dần dần tôi nhận ra rằng, té ra một ngàn lạy, một vạn lạy bất quá cũng chỉ là một lạy trước mắt mà thôi. Vốn không cần phải so đo, lại càng không phải phí tâm nghĩ đến mình đang lạy một lạy. Cứ hưởng thọ cái sát na trước mắt được đối diện với Đức Phật là tốt vậy.
Người xưa nói: “Vạn cổ mênh mông, một ngày trăng gió”, khoảng trời mênh mông từ vạn cổ đến nay, chính là trăng gió mà bạn nhìn thấy trong khoảnh khắc trước mắt, mỗi trăng gió trong mỗi ngày đều là khoảng mênh mông vạn cổ. Cho nên bảo rằng: “Vĩnh viễn an lạc vô ưu” chính là mỗi “cái hiện tại” đều an lạc vô ưu. Nếu hiện tại mà không đủ mở lòng để hoan hỉ phát huy sinh mạng, tạo phước cho mọi người thế thì có tranh thu ngày mai cũng không ích gì. Tôi rất thích một câu nói cổ “dù ngày mai là ngày tàn của thế giới, đêm nay ta vẫn cứ trồng đầy hoa sen trong vườn, lấy lòng yêu gió mát trăng thanh mà ca vịnh Đức Phật A Di Đà”.
Dù ngày mai là ngày tàn của thế giới;
Đêm nay ta vẫn trồng đầy hoa sen trong vườn;
Đem lòng yêu gió mát trăng trong mà ca vịnh Đức Phật A Di Đà.
Mọi sự trên đời, mọi bệnh tật đều nhất nhất giải quyết, giải quyết đến cuối cùng, chỉ còn lại một vấn đề sinh tử không thể tránh khỏi, và vấn đề sau khi chết lại luân hồi thọ khổ.
May mắn có đức Phật A Di Đà từ bi phát 48 đại nguyện làm chỗ nương tựa cho chúng ta trong sinh tử. Tôi đã tận mắt chứng kiến rất nhiều người niệm Phật vào lúc lâm chung nhìn thấy đức Phật đến tiếp dẫn và vui mừng vãng sanh đến thế gi ới Cực Lạc. Cho nên tôi suy nghĩ kĩ, đã bị ung bướu thì phải làm sao? Phương pháp tốt nhất chính là hiện tại cứ hoan hỉ, can đảm thẳng tiến (“vãng”) đến cõi Tịnh Độ từ bi mà “sinh” sống (ý nghĩa của “vãng sinh”). Nắm lấy hiện tại an vui “vãng sinh” (thì mới không sống uổng). Đến khi sắp chết lại càng an vui, vì người niệm Phật chỉ cần người niệm Phật có tín nguyện kiên cố thì tất nhiên Đức Phật sẽ hiện tiền từ bi gia hộ, khiến chúng ta an nhiên tự tại, không khổ đau, không hoảng loạn và đón tiếp chúng ta. Xin chú ý, hoan hỉ “vãng sinh” thể giới Cực Lạc là đang sống mà có thể “vãng sinh” (di dân) đến thế giới Cực lạc Vô Lượng Thọ Mạnh, (hoàn toàn không phải chết đi mới mới gọi là “vãng sinh”), vãng sinh Cực Lạc là đến lưu học tại nước Phật, phát huy đầy đủ tiềm năng Phật tính, rồi quay trở về nhập vào thế giới khổ nạn mà cứu độ chúng sanh, thực hiện trọn vẹn đại nguyện vĩnh hằng! Quí vị nghĩ xem, có phương pháp nào tốt hơn thế chăng?
—o0o—
Pháp sư Đạo Chứng (Trích từ quyển Liên hoa hóa sanh)!