Tâm Hướng Phật
Kiến Thức

Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm

Hòa thượng cho phép Người theo chúng vào trai đường và dặn dò một câu: “Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm, về sau con sẽ rõ.”

Khi chưa vào tu trong chùa Thừa Thiên, Sư đã tự nhủ lòng: mình phước đức còn kém, nếu xuất gia tu chưa đắc đạo mà nhận của thập phương cúng dường một cách rộng rãi, e rằng không báo đáp nổi khiến cho đạo nghiệp khó thành. Do vậy, trước khi vào chùa Sư quyết chí rèn luyện giảm ăn bớt ngủ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây chứ không ngủ nghỉ trên giường chiếu, giữ được như thế rồi mới xuất gia làm tăng.

Sau khi xuất gia, Người quyết tâm khổ hạnh, ăn những món mà Người khác không thèm ăn, làm những việc mà người khác không muốn làm. Chùa Thừa Thiên lấy tám chữ “Phật Hỷ Chuyển Thụy Quảng Truyền Đạo Pháp” để truyền thừa Pháp mạch.

Lúc bấy giờ vị trụ trì chùa Thừa Thiên là Ngài Chuyển Trần, còn Sư Quảng Khâm là đệ tử của Pháp sư Thuỵ Phương – tu khổ hạnh. Từ chỗ đó mà biết được sở nguyện của Người.

Pháp sư Thụy Phương tu khổ hạnh quá khắc khổ nên đã viên tịch lúc còn trẻ tuổi. Sư Quảng Khâm tuy là đệ tử của Pháp sư Thuỵ Phương nhưng được sự dạy dỗ của Hoà thượng Chuyển Trần. Hoà thượng biết căn cơ Người thâm hậu, về sau ắt sẽ là long tượng của pháp môn, do vậy mà Hoà thượng khẩn thiết sách tấn và thường xuyên trực tiếp chỉ dạy cho Người.

Một hôm đại chúng đi lao động ngoài triền núi, đến gần trưa sắp trở về chùa thì nghe tiếng bản gõ báo ngọ trai. Vì chùa đông người thực phẩm cung ứng khó khăn nên thường ngày phải hạn chế trong khẩu phần ăn uống.

Bữa ăn lỏng bỏng không đủ chất dinh dưỡng, chúng lại phải ra sức làm việc trên đồi núi, ai nấy đều đói đến đầu óc choáng váng, cho nên khi nghe báo giờ ăn mọi người chẳng màng thu dọn dụng cụ đua nhau về trai đường.

Lúc đó Người cũng muốn mau theo chúng tăng về trai đường nhưng bị Hoà thượng Chuyển Trần gọi lại bảo phải gom hết dụng cụ trả lại chỗ cũ.

Lúc đó Người đã rất đói bụng, tay chân bải hoải, hai mắt lờ đờ mất thần. Tuy vẫn thu dọn đồ đạc nhưng trong lòng chán ngán, nghĩ bụng: làm việc vất vả như thế này, ăn cơm thì toàn rau, lại phải chịu cảnh như vầy, sao mà khổ quá! Tâm sân liền khởi, “bất kể ba bảy hai mốt”, “Hòa thượng cũng chẳng thèm làm”, thẩn thờ bước đi ra ngoài núi…

Đi chẳng bao xa, lòng thổn thức: “Chẳng phải vì ta đã quyết chí tu khổ hạnh ngõ hầu thoát khỏi luân hồi sinh tử nên mới xuất gia hay sao? Nay chỉ vì một chút khổ nhọc cỏn con mà nao núng chí khí, há chẳng phải là làm trái với ý nguyện ban đầu?”

Ngay sau tiếng nói tự đáy lòng ấy Người bỗng thấy ý chí vươn cao, lập tức sự mệt mỏi, sự đói khát, sự bất mãn đều tan biến. Người liền đến trước Hoà thượng Chuyển Trần xin nhận chỉ thị.

Hoà thượng cho phép Người theo chúng vào trai đường và dặn dò một câu: “Ăn cái người không ăn, làm cái người không làm, về sau con sẽ rõ.” Từ đó về sau Người càng khắc khổ tự rèn, chẳng dám khởi niệm thoái chuyển.

Người từ nhỏ chưa từng được giáo dục, ngay cả chữ viết to cũng chỉ đọc được năm ba chữ; không biết giảng kinh cũng chẳng rành gõ mõ tụng niệm, thường bị người khác xem thường, tự mình cũng cảm thấy buồn bực.

Nghĩ trong lòng: tuy đã nhịn ăn, nhịn ngủ, nhịn mặc nhưng không có cách gì để trên thì đền ơn Tam Bảo, dưới thì hoá độ chúng sanh! Thế là Người quyết tâm gieo phước để báo ân.

Hàng ngày đợi đại chúng ăn xong Người lượm những hạt cơm rơi rớt trên bàn, dưới đất, không rửa hay nấu lại, cứ để vậy mà ăn. Nếu có các bậc Đại đức Cao tăng từ xa đến, Người hầu trà, dâng nước rửa mặt, khăn tay, giày dép, đổ nước bẩn đã giặt rửa… Tất cả các việc nặng nhọc như khuân vác, bửa củi, nấu cơm, lau chùi, quét dọn… Người đều cật lực đảm đương mà không một tiếng than phiền.

Người làm việc nặng nhọc, tu phước trên mười năm, sau được giao lo việc hương đèn. Mỗi ngày thức khuya dậy sớm trông lo Đại Điện qua các việc như hương, đèn, hoa, quả cúng Phật; đồng thời đánh bản báo thức chúng dậy tu tập.

Có lần Người ngủ quên, đánh bảng trễ 5 phút, tự nói trong lòng rằng 600 người cùng tu, mỗi người trễ 5 phút, cộng lại hơn 3000 phút, hậu quả này làm sao gánh nổi! Bèn quỳ trước cửa chánh điện sám hối với mọi người.

Người có tinh thần trách nhiệm rất cao, tự trách lỗi mình rất nghiêm khắc, từ đó về sau ngày ngày Người ngồi trước Phật đài, không dám lơ đễnh; vì trong lòng luôn cảnh giác một đêm Người thức dậy năm sáu lần, do quá thận trọng mà nửa thức nửa ngủ, để rồi mặc nhiên trở thành người “không hề đặt lưng lên đơn”.

Năm 1933 Người đã đến tuổi trung niên mà vẫn chưa thọ cụ túc giới. Từ ngày xuất gia cho đến nay đã được hai mươi hai năm rồi! Sở dĩ Người trì hoãn việc thọ giới là vì nghĩ mình chưa đủ đức hạnh để gánh vác sự nghiệp của Như Lai, sợ rằng trên thì lừa đối Phật dưới thì gạt gẫm chúng sinh; ngoài thì bội thầy phụ bạn, trong thì phụ chính bản tâm.

Mãi đến khi tinh tấn hành lễ Phật thất ở Cổ Sơn Tự chứng được niệm Phật tam-muội Người mới dám tự nguyện gánh vác sự nghiệp Như Lai, đến chùa Long Sơn thọ đại giới, từ đó vân du tự tại.

Người ta cho rằng nhờ theo phái thiền Lâm Tế mà Người chứng đắc, thực ra trước đó Người đã nhờ niệm Phật mà chứng Tam-muội, sau mới tham thiền. Cảnh giới mà Người thấy khi hành lễ Phật thất ở Cổ Sơn Tự chúng ta chỉ biết được đôi chút nhờ cuộc đối thoại giữa Người với một ngoại kiều.

Người chơn chất khiêm cung trả lời thắc mắc của đồng đạo ngoại kiều từ xa xôi đến: “Lúc bấy giờ, trong tiếng niệm Phật bỗng nhiên thân tâm trở nên tịch tĩnh như đang ở trong cảnh giới xa lạ; mở mắt thấy hoa nở-chim hót, gió thoảng-cỏ lay, tất cả đều hoà nhập với tiếng niệm Phật–niệm, Pháp-niệm Tăng. Trạng thái này kéo dài liền trong ba tháng không gián đoạn”.

Trong “Kinh Phật nói về A-Di-Đà” có đoạn:” Lại nữa, này Xá Lợi Phất, cảnh giới ấy thường có các loài chim kỳ diệu đủ màu, bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca-lăng-tần-già cùng chung sống. Các loài chim này ngày cũng như đêm cùng cất tiếng ca thanh thoát, âm thanh diễn tả tuyệt vời các pháp ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần. Chúng sanh trong cõi đó nghe hòa âm như vậy rồi, tất cả cùng niệm Phật-niệm Pháp-niệm Tăng”.
Lại nói: “ Này xá Lợi Phất, cõi Phật ấy gió nhẹ thoảng lay, các hàng cây báu cùng các mạng kết bảo châu phát ra âm thanh vi diệu, ví như trăm ngàn thứ âm nhạc đồng thời trổi lên, ai nghe âm thanh ấy cũng đều phát tâm niệm Phật-niệm, Pháp-niệm Tăng”.

Lại nói trong kinh chiếu ứng với cái thấy của Người. Đức Phật từ bi, Sư phụ từ bi, tuy là miêu tả một cách sơ lược nhưng đối với hạng phàm phu chúng ta nghe như tiếng sét bên tai, như tiếng sấm vang rền. Ai cũng không thể làm ngơ giả điếc giả câm. Lời Phật dạy trong kinh, điều Sư phụ thể chứng chơn thật từng câu từng chữ. Vậy đối với pháp môn niệm Phật lẽ nào ta chẳng có niềm tin sâu sắc?

Sau khi chứng nghiệm, Người quyết chí tìm nơi ẩn tu để thể hiện pháp thân tự tại, rồi được sự đồng ý cùng mấy lời dặn dò của Hoà thượng Chuyển Trần Người đến chùa Hưng Hoá thọ giới.

Sau khi thọ giới trở về, chuẩn bị đi ngay vào núi tu khổ hạnh. Hoà thượng Chuyển Trần biết Người công phu chắc thực, long tượng sơ lộ, bèn đồng ý cho Người lên núi tu một mình.

Khi lên núi, hành trang chỉ có 4 bộ quần áo đơn sơ để thay đổi mỗi khi cần giặt giũ và độ hơn 10 cân gạo; nhưng lòng chứa chan hy vọng, Người lên thẳng núi Thanh Nguyên phía sau chùa Thừa Thiên, chuẩn bị một cuộc sống “mai danh ẩn tích”.

Trích: Hồi Ký về Hòa Thượng Quảng Khâm
Tác giả Tông Ngang
Dịch giả: Ni chúng Tự Viện Vĩnh Minh Lâm Đồng
Hiệu đính: Giáo sư. Phạm Phú Thành & Đại Đức. Thích Giải Hiền

Bài viết cùng chuyên mục

Phật ở trong tâm hay Phật ở ngoài tâm?

Định Tuệ

Muốn cứu độ thân bằng quyến thuộc thì nên chân thật niệm Phật

Định Tuệ

Người vãng sanh Cực Lạc cần điều kiện gì?

Định Tuệ

Phàm là tà pháp tà giáo thì hầu như đều tạo ra ác nghiệp

Định Tuệ

Con người chỉ cần một niệm hồi tâm thì chư Phật liền hộ niệm

Định Tuệ

Vì sao phải cúng thất? Cúng thế nào người chết mới được lợi ích?

Định Tuệ

Thần linh Thổ Địa là ai? Chuyện về Thần linh Thổ Địa

Định Tuệ

Phật Pháp là gì? Tu Đạo là như thế nào?

Định Tuệ

Sự tất yếu của luân hồi tùy thuộc nhân quả

Định Tuệ

Viết Bình Luận