Tâm Hướng Phật
Luân Hồi

Pháp liễu nghĩa và bước nhảy vô hồn – Mộng thoát luân hồi

Xưa nay chúng ta hiếm thấy người đốn ngộ trong một đời, nhưng người cầu vãng sanh về Cực lạc thành Phật khó tính đếm hết – là một cách hiểu khác của đắc đạo.

Niệm Phật là pháp Đại thừa, cũng cao thâm như lý Bát-nhã; nó có tính phá chấp nên ngoại trừ những người thượng căn xả bỏ thân kiến và ngã kiến thiết nguyện cầu vãng sanh, trong một thời gian ngắn dễ gặp được bè giác ngộ, nhận lời hứa tiếp dẫn về cõi Tịnh từ Phật A Di Đà. Những căn cơ còn lại, thiết nghĩ cần phải tu vững căn bản, lấy Tiểu thừa làm nền.

Lẽ ra Phật giáo không có sự phân chia Tiểu thừa và Đại thừa, nhưng điều này đã trở về lịch sử, cũng không nên bận tâm. Ai tu Đại thừa mà không tu Tiểu thừa không phải đệ tử Ta. Câu kinh này tối quan trọng. Theo bậc minh sư, có thể xem Tiểu thừa là móng, Đại thừa là nhà. Nhà không móng là nhà giữa hư không. Ở cõi Ta-bà mà nói, ấy là ngôi nhà ảo tưởng! Dĩ nhiên người tu Đại thừa có thể vừa tu vừa bồi đắp căn nền Tiểu thừa, cách này thật sự khôn ngoan. Nếu không học kỹ Tứ niệm xứ, quán thân vô thường, tâm vô ngã để lung lay gốc rễ của ái, thủ vốn bám chặt cõi trược nghìn vạn rễ độc, sẽ không phá nổi sắc, thọ, tưởng, sự niệm Phật chờ Phật rước lúc lâm chung, thực tế cũng khá hoang đường.

Không thấy sự vô thường của thân xác đâu dễ bước về ánh sáng vô lượng. Hình dung về cái máy niệm Phật được giấu trong đống rơm, mọi người ngang qua đều trầm trồ “đống rơm đang niệm Phật kìa”; thế rồi đống rơm tưởng mình là máy niệm Phật. Nó xuôi theo lời khen tiếng chê, rồi mê thất bổn tánh đến không còn biết cái máy vẫn vốn dĩ không ngừng niệm A Di Đà Phật; bởi vọng tưởng duyên theo trần cảnh đành chờ một nhân duyên đặc biệt, xoay cái nhìn xoay cái nghe vào trong, cứ thế yên lặng và yên lặng cho đến từng mảng an lạc bừng vỡ. Con đường tu đạt đến sự trong lặng đòi hỏi hành giả phải buông trọn ráo. Một con đường dài vô tận song cũng không quá xa vời. Khoa học cũng khuyên, mỗi người đều có năng lực lũy thừa khả năng. Từ 7 + 7 = 14, bạn có thể thực hiện phép 7 x 7 = 49 sự thành tựu. Tại sao người tu không tự lũy thừa khả năng chứng ngộ của mình.

Xưa nay chúng ta hiếm thấy người đốn ngộ trong một đời, nhưng người cầu vãng sanh về Cực lạc thành Phật khó tính đếm hết – là một cách hiểu khác của đắc đạo. Vấn đề ta có muốn buông? Ta nắm cái điện thoại giá trị, chấp vào nó, ngày ngày sợ cả trầy xước nói gì buông. Cái ngoài thân buông chưa nổi thì thân này sao đành. Ta không muốn, Phật cũng bó tay. Do thói quen, do ấn tượng sâu sắc về những gì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý lưu giữ cẩn mật trong vọng thức; ta đưa nó ra ngắm nghía từng ngày, đưa so sánh với những thứ mới tiếp xúc rồi phân tích đánh giá, luận bàn, phán xử. Hơn 90% năng lượng tiêu hao vào đó. Cho đến lúc thân rã rời ngả lưng thư giãn, tâm vẫn tiếp tục tưởng đến thị phi nhơn ngã, vẫn không chịu nương vào câu “A Di Đà Phật”, để tiếp tục tiêu hao 90% của 10% còn lại. Ta như “thầy đồ liếm mật” ngoạm bên này ngoạm bên kia, đem bóng tối chiếm dần sự minh tuệ. Tưởng đến câu chuyện đẹp, ta cũng không thể gạt khỏi dòng nghiệp thức những câu chuyện xấu xa, tội lỗi.

Người thân yêu mất, ta luôn tưởng lại họ trong mọi cử chỉ hành động gắn chặt cùng mình, rồi tâm bệnh sinh thân bệnh chết dần mòn. Nghĩ về họ chẳng những ta buồn đau mà họ buồn đau gấp bội. Sự nghĩ tưởng là tham hàng đầu của mọi tham. Ta không muốn buông sự tham đó. Nghĩ về một lần được vinh danh giữa đám bạn, nghĩ về một kỷ niệm đẹp, nghĩ về dục vọng, ôi, thật vĩ đại sướng sung. Ôi, thật điên đảo cái tâm này. Ôi! – Ta phải quán cái chữ này thật sắc thật trong và thật giễu nhại; “ôi, vọng tưởng cũng trói được ta trong lục đạo ư?!”.

Không quán thân vô thường, ta niệm Phật đôi khi khiến mây ngũ dục, mây ngũ ấm càng kéo về dày đặc. Không thấy đời vô thường, ta vừa niệm Phật vừa tìm đường thoát khỏi Ngũ giới, Thập thiện để rồi lạc vào cái gọi phá chấp vốn chỉ dành cho hàng căn tánh vô ngã. Vô ngã là gì? Là hạng người mà áo quần gọn gàng mặt mày sáng sủa vừa bước ra đường bất ngờ bị người ta tạt phân vào mặt, họ vẫn chỉ… cười thôi. Ta có ngã, có phân biệt và đầy mình chấp trước, niệm Phật dĩ nhiên sợ vãng sanh. Ta chưa thấu hai chữ vãng sanh nên cứ nghĩ nó là một cách diễn đạt khác của chết. Phật gia trì thọ mạng mỗi mỗi chúng sanh không hết lại ngắt bớt tuổi thọ của ai bao giờ. Ta sợ đạt công phu thành phiến, là điều kiện cần Phật xuống rước.

Ta sợ một ngày niệm Phật được nhất tâm tức là không còn nghĩ tưởng thế gian, sợ “chán” Ta-bà. Ta sợ đến một ngày không bè bạn, không điện thoại, không ti-vi, không internet, ru rú một mình. Ta cầu vãng sanh nhưng lúc nào cũng sợ “chứng”, sợ phải rời bỏ chốn dung thân có cây bồ-đề tỏa bóng trước hiên nhà, bạn bè thân quyến và biết bao cuộc hẹn, bao dự định dở dang nữa. Ta đang phát cái nguyện giả. Thực tâm không muốn thoát bể khổ. Ta không muốn ra khỏi chốn lấm bết bùn lầy. Bởi ta chưa nhìn thấu nó bùn lầy uế trược. Bởi ta chấp xà phòng thơm, nước hoa ngoại ngày ngày thoảng trên tấm thân đáng tội này. Ta nhăn mặt bịt mũi nhổ dãi vén áo quần là lượt khi vào đại tiện, lại không quán mình khác chi cái nhà xí di động chứa hầm phân và nghĩa địa chúng sanh. Ta vẫn muốn già muốn bệnh và muốn hấp hối đảo điên đã mới muốn cầu về nước Phật. Ta không muốn biết chính cõi này cũng là Cực lạc.

Chính ở cõi này nhiều vị tu chứng nhìn thấy chúng ta vàng ròng trong suốt, thấy vạn vật đều trang nghiêm thanh tịnh. Nhiều vị âm thầm sống trong niềm hỷ lạc vô biên khôn tận, âm thầm cứu rỗi linh hồn của vũ trụ. Chính do con mắt phàm của ta nhìn thế gian lắm nỗi. Chính do tâm vọng ta làm rối loạn tối tăm cảnh trần. Lúc gặp pháp niệm Phật lại tưởng mình cao sang không cầu hòa giải lại đối lập phân biệt với mọi người mọi sự mọi vật.

Chẳng xem nhẹ thân này, chẳng xem nhẹ dục lạc, chẳng thấm triết lý hết thảy chỉ là phương tiện như rau cháo qua ngày thì tu song dưới bề sâu tâm thức chẳng muốn ra ngoài tam giới; vẫn thấy cuộc đời này tươi đẹp, vẫn thấy mình còn quá thanh xuân. Vẫn công khóa đều đặn ngày vài thời, đi đứng nằm ngồi vẫn nhớ niệm Phật nhưng vẫn còn ẩn giấu cái ý nghĩ cũng phải nhìn thế gian ngả màu thời gian đã rồi tính đến vãng sanh chưa muộn. Bởi chấp thân. Thân này lại chấp tài sản gia quyến. Ngay đến xả vật “của ta” vốn ở ngoài thân đã quá khó nói chi đến xả thân quý báu nô lệ nó hết mực này. Xả được tài, ít nhất bạn phải có ý nghĩ đang đi bỗng thấy từ trên ngôi nhà cao tầng tung xuống cả núi tiền, người người ùa tới đua tranh xô đẩy dẫm đạp nhau nhặt nhạnh, bạn sẽ đắm trong nỗi hân hoan như thấy trước mắt là người trẻ đang nô đùa tắm táp dưới một cơn mưa rào bất chợt.

Phật từng bảo nếu thân này của ta sao không thể khiến nó trẻ đẹp mãi. Chấp thân là ta cũng như nhân viên ngân hàng chấp lượng tiền đếm mỗi ngày là của mình. Cái thân này, là nơi ẩn náu của tâm; nó chỉ là đống rơm còn ta là “máy niệm Phật” giấu trong đó. Còn hơn thế, thân chẳng những không là của ta như áo quần đang mặc, mà thân này cũng không phải của ta nốt. Nó thuộc về hư không. Ta mượn cái hư huyễn trú ngụ, niệm Phật cầu trở về Cực lạc mà thôi.

Dựng lập những ý niệm này vững chãi thật chẳng dễ mấy ai: Con đã xong mọi chuyện thế gian. Vợ con đó, nhà cửa danh vọng đó song con đã sắp xếp ổn thỏa không lưu luyến; con muốn về cõi Tịnh bất cứ lúc nào Phật cảm ứng. Con muốn tu chứng ngay bây giờ, ngay ngày mai; song hành ít nhất với công phu niệm Phật thành phiến.

Pháp liễu nghĩa và bước nhảy vô hồn - Mộng thoát luân hồi

Niệm Phật, vấn đề ở chỗ tai có nghe rõ từng chữ hay không. Nghe chữ thứ nhất trọn vẹn, ta phải níu lấy những vang động của A đó rồi nối vào chữ Di, chữ Đà, chữ Phật tiếp theo; nhất là khi tan mình trong mật âm của chữ Phật đang ngân vang, thì ta lại tiếp tục trở lại với chữ A. Đây là mức đầu tiên để ghép từng chuỗi lại với nhau, ba chuỗi, năm chuỗi; để một lúc nào đó câu Phật hiệu vươn lên thành khối đậm đặc không gian. Nhược bằng ta niệm Phật mà tai không chậm rãi nghe rõ, dẫu niệm nhanh niệm chậm, dẫu niệm bao nhiêu thời gian, vọng niệm sẽ cuốn “A Di Đà Phật” đi thật dễ dàng.

Ở đây cần một điều tối quan trọng: Đã qua giai đoạn bất chấp vọng niệm để gắn bằng được “máy niệm Phật” vào tâm, qua tiếp giai đoạn hòa giải vọng niệm, rồi khá nhuần việc phẩy qua chuyện thế tục dẫu hấp dẫn hay oan nghiệt đến đâu lội qua tâm trí; bây giờ với vọng niệm cần hơn cả hòa giải, là cảm hóa. Phiền não tức Bồ-đề, tham sân si tức giới định tuệ. Chẳng như đoạn si, không có nghĩa ta bứng gốc si rồi trồng vào đó gốc tuệ, mà ngay nơi si kia vừa mất chính là tuệ hiện tiền, không có trước không có sau. A Di Đà Phật dội vào, vọng niệm ẩy ra, cứ lấn qua lấn về không chừng đối kháng. Người ta đã “buông dao”, bạn còn ở đó trui rèn giáo mác mà thánh chiến với vọng tưởng! Vọng rốt cùng cũng là “sinh mệnh”; niệm Phật với tâm từ bi vô hạn tự khắc vọng sẽ được cảm hóa, sẽ gộp vào A Di Đà Phật như lá lay bụi bặm cuốn theo cơn lốc xoáy.

Người nước ngoài chửi ta, ta không biết tiếng nước đó sẽ không khởi sân giận. Chính vì ta lầm chấp vào tướng nội dung của nó. Tánh của vạn pháp là Không; pháp vọng niệm tánh của nó cũng Không. Nên chính vọng niệm cũng là “A Di Đà Phật”. Càng nhiều vọng niệm tu khéo sẽ càng nhiều trí tuệ. Các Tổ giảng niệm đến Sự/Lý nhất tâm thì hồng danh không còn tướng danh tự, niệm mà không niệm. Phật hiệu như con thuyền hoàn thành nhiệm vụ đưa vọng tâm trở về tự tánh mênh mang.

Ấy là điều khó. Nên trước hết trở về niệm Phật với tâm thiết tha được về cõi Tịnh, với lòng cảm ân sâu xa mười phương chư Phật – điều này đôi khi quan trọng chẳng thua việc trì niệm. Căn nền vẫn ở chữ buông. Buông mới mong thể nhập nghĩa chân thật kinh điển, sẽ không còn thấy gì trong thế gian hấp dẫn nữa. Cái cảm giác được trở về làm rung động sâu xa tâm khảm. Một danh sách dài dặc những người từng gặp, từng biết dẫu thoáng qua danh vị, như cái máy dò tìm thấy không dừng lại ở dòng tên nào khởi lên vướng mắc. Ta bắt đầu chuỗi ngày thấy ai cũng đã “trở về” với mình như sự hội ngộ trong một ngày xuân tươi mới.

Thử vẽ ra một con sông, bên này cõi uế, bên kia cõi tịnh. Có buông nghĩa là ta một mình đứng ở bờ bên này sẵn sàng qua sông. Là lúc đã thấm thía khổ, không, vô thường hành qua Tứ niệm xứ. Bỗng thấy giữa sông có những chỗ tiền trạm, bắt đầu là cái chòi có oan gia trái chủ ẩn nấp, rồi đến túp lều có ma vương đang thưởng trà, tiếp đến là chỗ có các bậc tổ sư đại đức. Nếu theo Bát-nhã tức phải một cú nhảy vọt qua hết thảy đến thẳng trước mặt Phật bên kia bờ.

Nghĩa là trước đó bạn đã một mình lầm lụi quãng đường rất xa từ ngôi làng thân thương đến chỗ đang đứng, chứ không phải dắt theo vợ con cháu chắt bè bạn và rất nhiều đồ đoàn đến đó. Ý muốn ra ngoài cõi khổ, ý muốn gặp Phật A Di Đà bừng cháy trong ta. Bấy giờ, hãy thực hiện cú nhảy. Còn không ta mới tiền trạm ở cái chòi đầu tiên đã bị các “chủ nợ” quẳng xuống nước (chướng duyên, lâm bệnh ngặt nghèo, tai nạn, hễ ngồi xuống thì vọng tưởng trào sôi, cuốn phăng chánh niệm, cuốn phăng câu Phật hiệu lúc nào chẳng hay; thì ta phải trở về tu lại Lục hòa kính, Thập thiện, Ngũ giới, Tứ chánh cần, Tứ niệm xứ, tu kỹ Lục độ và hơn hết là tu hiếu thân tôn sư, tu hạnh nguyện sám hối nghiệp chướng.

Đến lúc ra đường gặp ai kể cả loài vật ta cũng chừng muốn bật khóc, cũng có cảm giác muốn cúi lạy. Rồi thõng tay vào chợ. Với ta lúc này sở học thế gian bụi bám, bể học thánh hiền rêu phong, đến cả Phật pháp nửa chữ cắn đôi cũng Không nốt; ta mải miết dạo “trên lối mòn thỏ chạy” cho tới khi người người đoan quyết, ồ cái tướng ấy trông khờ khờ làm sao, cái tướng ấy trông hao hao Bờm quá; giữa rừng dục phấp phới ta không còn lung lay bởi tám gió. Vậy là đã buông rồi, tự tại hướng về bờ sông để thực hiện lại bước nhảy cuối cùng.

Hồ Dụy!

Bài viết cùng chuyên mục

Lửa địa ngục nóng hơn lửa thế gian hằng vạn lần

Định Tuệ

Địa ngục là gì? Địa ngục có thật không theo đạo Phật?

Định Tuệ

Quả báo đọa địa ngục móc mắt – Địa ngục du ký

Định Tuệ

Quả báo đọa địa ngục treo ngược – Địa ngục du ký

Định Tuệ

Quả báo đọa địa ngục rút ruột – Địa ngục du ký

Định Tuệ

Địa ngục là gì, có thật hay không? Lúc nào thì chúng ta bị đọa địa ngục?

Định Tuệ

Quả báo đọa địa ngục đói khát – Địa ngục du ký

Định Tuệ

Có hay không việc luân hồi chuyển kiếp?

Định Tuệ

Linh hồn của người tự tử sau khi chết thường khó siêu thoát

Định Tuệ

Viết Bình Luận