Chúng ta biết được, thế gian không có người nào mà không cầu phước báo. Phước là từ do đâu mà có? Phước là do chính mình tu được. Tu cái gì? Tu bố thí, tu cúng dường.
Kinh văn: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức”.
Câu Kinh văn này nói rõ, đại chúng dự hội đều là tu hạnh Phổ Hiền. Do đây có thể biết, Thế giới Tây Phương Cực Lạc đích thực là pháp giới của Bồ Tát Phổ Hiền. Không luận là ở một cõi nước nào, ở một nơi nào, tất cả chúng sanh sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là tu hạnh Phổ Hiền. Thế Tôn nói cho chúng ta nghe hạnh Phổ Hiền rất viên mãn, rất rõ ràng chính là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. Do đây có thể biết, Thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là Thế giới Hoa Tạng, không chỉ là Thế giới Hoa Tạng, mà còn là trung tâm của Thế giới Hoa Tạng, là đô hội tinh hoa trong Thế giới Hoa Tạng. Chỗ này chúng ta đều phải nên thể hội được.
Hạnh Phổ Hiền thì vô lượng vô biên. Phật ở các Kinh luận đem vô lượng hành môn quy nạp thành mười loại lớn, gọi là mười khóa mục. Trong mỗi một khóa mục hàm nhiếp vô lượng vô biên pháp môn. Mười khóa mục này chính là “Phổ Hiền Bồ Tát Thập Đại Nguyện Vương” mà người thông thường chúng ta đều đã quen thuộc. Thứ nhất, “Lễ kính chư Phật”; thứ hai, “Xưng tán Như Lai”, tôi đã giới thiệu qua với các vị. Hôm nay, tôi giới thiệu với các vị “Quảng tu cúng dường”. Điều này vô cùng quan trọng.
Nguyện thứ ba, “Quảng tu cúng dường”
Chúng ta biết được, thế gian không có người nào mà không cầu phước báo. Phước là từ do đâu mà có? Phước là do chính mình tu được. Tu cái gì? Tu bố thí, tu cúng dường. Bố thí cùng cúng dường là một việc, khác biệt chỉ là ở nơi dụng tâm. Phàm phu thông thường chúng ta, đối với tôn trưởng, đối với Phật Bồ Tát thì chúng ta cúng dường, còn đối với người ngang hàng, đối với người thông thường thì gọi là bố thí. Do đây có thể biết, khi cúng dường thì tâm địa chân thành cung kính, khi bố thí thì tâm cung kính liền hạ thấp xuống, thậm chí hoàn toàn không có tâm cung kính, còn sanh ra một số tâm ngạo mạn để bố thí, thế nhưng đều có thể được phước. Đương nhiên dùng tâm cung kính để tu bố thí, tức là tu cúng dường thì phước báo có được là vô cùng thù thắng. Bồ Tát Phổ Hiền dạy cho chúng ta “Quảng tu cúng dường”, bạn thấy, trong đây Ngài không nói bố thí là để chúng ta đối với tất cả chúng sanh (bao gồm cả “xuẩn động hàm linh”) đều dùng tâm cung kính cúng dường giống như chư Phật Như Lai vậy. Phước báo này thì lớn. Việc này chúng ta phải nên học tập.
Bố thí cúng dường có thể phân làm ba loại lớn. Ba loại lớn này, thông thường chúng ta gọi là ba loại bố thí.
Loại thứ nhất là “Tài bố thí”. Bao gồm tất cả tài vật phải nên phát tâm bố thí cho tất cả chúng sanh. Bạn có thể tu tài bố thí thì quả báo chính là tiền của. Chúng ta xem thấy, ở trong xã hội này có rất nhiều hào môn quý tộc, đại phú trưởng giả (trong xã hội ngày nay gọi là ông chủ xí nghiệp), họ có của cải rất hùng hậu, của cải này từ do đâu mà có? Nếu nói họ kiếm ra được, các vị có tin không? Nếu họ có thể kiếm ra, vì sao bạn không kiếm ra được? Bạn nói vận may của họ rất tốt, tôi xem thấy vận khí của bạn cũng không kém gì họ, vì sao họ có thể có tiền của còn bạn thì không có? Xin nói thành thật với các vị, của cải này là trong mệnh họ có. Trong mệnh của họ có thì không luận là từ nơi nghề nghiệp nào, nghề nghiệp đó là duyên, bất cứ một nghề nghiệp nào họ đều có thể kiếm ra tiền, họ đều có thể giàu sang. Nếu trong mệnh bạn không có, người ta đem ngân hàng tặng cho bạn, không qua được hai tháng thì phá sản. Vì sao vậy? Trong mệnh của bạn không có. Đạo lý này bạn phải hiểu. Tiền của không phải do tranh mà được, không phải có thể kiếm ra được, không hề có việc như vậy.
Thế gian, tôi nghe nói còn có một số người xuất bản một số sách tên là “Chí Phú Bí Quyết”, cái đó đều là giả. Bạn mua về xem, thực tế mà nói, họ phát được tài, do bạn đem tiền đến cho họ thì họ phát tài rồi. Bạn đem sách về nhà xem, chiếu theo đó mà làm nhưng không ích gì, không thể phát được tài. Cho nên, tất cả phải có trong mệnh. Người xưa nói: “Công danh phải có mệnh”. Công danh chính là ngày nay chúng ta gọi là học vị, bạn đi học lấy được học vị gì đó là do mệnh; bạn làm quan, có thể làm được quan to cũng là do mệnh, bạn phát tài được nhiều hay ít cũng là do mệnh. Trong mệnh của họ làm sao có? Nhân do đời trước đã trồng. Nhân này của họ thù thắng thì quả báo đời này của họ thù thắng, nhân này của họ không thù thắng thì quả báo cũng liền có kém khuyết. Do đây có thể biết, tu nhân mới có thể có được quả. Cho nên, Phật dạy bảo chúng ta tu tài bố thí thì được tiền của, tu pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, tu vô uý bố thí thì được khỏe mạnh sống lâu. Bạn xem, tiền thì bạn cũng cần, thông minh thì bạn cũng cần, khỏe mạnh sống lâu thì càng cần hơn. Ba thứ quả báo này bạn đều cần đến, nếu bạn không tu ba loại nhân này, ngày ngày khởi vọng tưởng thì không thể có được; ngày ngày cầu Phật Bồ Tát, Phật Bồ Tát cũng không thể nào giúp được cho bạn. Việc này chúng ta nhất định phải hiểu. Phật Bồ Tát không thể ban phước cho chúng ta. Trong mệnh của chúng ta không có, Phật Bồ Tát có thể ban cho chúng ta, vậy thì chúng ta cần gì phải tu chứ? Không cần phải tu, ngày ngày nịnh bợ Phật Bồ Tát thì được rồi, thì Phật Bồ Tát cho chúng ta rồi. Không hề có việc này! Có nịnh bợ thế nào cũng không ích gì, Phật Bồ Tát thương mà không thể giúp. Phật Bồ Tát giúp cho chúng ta, thông thường chúng ta nói bảo hộ đối với chúng ta, gia trì đối với chúng ta, không gì khác hơn chỉ là đem những đạo lý này nói rõ cho chúng ta nghe, đem chân tướng sự thật nói tường tận cho chúng ta. Chúng ta hiểu được đạo lý này rồi, y theo phương pháp Phật dạy mà tu tập, thì liền có thể có được quả báo thù thắng. Đó chính là sự gia trì, bảo hộ của Phật Bồ Tát. Vạn nhất không nên mê tín.
Người chân thật thông hiểu, người chân thật giác ngộ, tiền của chúng ta nên đặt ở đâu cho tốt? Bạn xem thấy xã hội hiện tại, đầu tư vào cổ phiếu, đầu tư vào đất đai (việc này tôi đều không rõ lắm, tôi không phải là người trong nghề), đủ loại phương pháp để kinh doanh tiền của. Nghe nói trong hai năm nay kinh tế không tốt lắm, một trăm vạn biến thành mười vạn, rất nhiều người tự sát. Ở trên Kinh Phật nói với chúng ta, “tài vi năm nhà cộng hữu”, không phải bạn có, chẳng qua chỉ là ở trước mắt bạn để cho bạn xem thấy mà thôi. Bạn cho rằng tiền của này là của bạn là sai rồi. Bạn là tâm tùy cảnh chuyển, mỗi ngày trải qua ngày tháng khổ nói không ra lời. Ai làm cho bạn khổ đến như vậy? Chân thật là tự mình làm, tự mình chịu. Mê hoặc điên đảo! Phật dạy cho chúng ta làm thế nào mới có thể phát tài? Bố thí, cúng dường. Cúng dường cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, bố thí tất cả chúng sanh thì tiền của bạn dùng sẽ không hề thiếu. Các vị phải ghi nhớ, tiền dùng không thiếu thì được rồi, không cần phải tích lũy, không cần phải nhiều, vì nhiều rồi thì tai nạn liền đến, họa hại liền đến. Cho nên, phải biết xả tài ra. Nhà Nho cũng nói: “Tích nhi năng tán”, có thể xả ra mới là người thông minh.
Người Trung Quốc thời xưa cũng cúng thần tài, vì người nào cũng đều muốn phát tài. Việc cúng thần tài, người thời trước có trí tuệ, thông minh, họ không mê tín. Thần tài là vị nào vậy? Nghe nói hiện tại người Đại Lục cúng thần tài có thể cũng bị ảnh hưởng của Đài Loan, Đài Loan cúng thần tài là cúng Quan Công (Quan Vũ thời Tam quốc). Quan Công với phát tài có quan hệ gì chứ? Không có quan hệ gì! Con người của Quan Phu Tử, tôi xem thấy sở trường của ông không có gì, ông chỉ làm được hai chữ “trung nghĩa”. Nếu chúng ta cúng Quan Phu Tử, học trung nghĩa của ông, chân thật là oai vũ bất phục, phú quý không màng. Ông là mô phạm để chúng ta làm người. Bạn thấy khoảng thời gian ông ở nơi Tào Tháo, Tào Tháo dùng hết tâm sức, hy vọng ông chân thật đầu hàng để sử dụng, thế nhưng Quan Phu Tử thân tuy là ở nơi Tào dinh, nhưng tâm thì thường hay nhớ đến hiền chủ. Đây là mô phạm tốt nhất cho người đời sau. Ngài tuy là vượt năm quan, trảm sáu tướng, về đến hiền chủ bên đó, Tào Tháo vẫn rất bội phục đối với ông ấy, người trung nghĩa như vậy ở thế gian này rất khó tìm. Không những hiện tại không có, mà vào thời xưa cũng rất ít. Người hiện tại không nói trung nghĩa, thấy lợi thì quên nghĩa, chỗ nào đãi ngộ tốt một chút, địa vị cao một chút thì lập tức chạy theo. Cho nên những người như vậy đều phải nên cúng dường Quan Phu Tử, để thường nhìn thấy Ngài, chính mình sanh tâm hổ thẹn.
Trung Quốc thời xưa cúng thần tài là cúng Phạm Nặc. Người đọc sách xưa có lẽ biết, ông là người thời đại chiến quốc, đại phu của Việt Vương Câu Tiễn. Việt Vương cũng tương đối cừ khôi. Các vị phải nên biết, từ xưa đến nay, trong nước, ngoài nước, anh hùng hào kiệt, xây dựng một chánh quyền chẳng phải là một việc thật khó; nhưng sau khi quốc gia diệt vong mà có thể phục hưng lại thì rất là khó, ở trong lịch sử rất ít thấy. Trong lịch sử Trung Quốc, Việt Vương Câu Tiễn là thí dụ thứ nhất, ông đã làm thành công. Sau khi bị nước Ngô tiêu diệt, ông đích thực có thể phục hưng lại, có thể báo được thù, đều nhờ ở sự trợ giúp của Phạm Nặc và Văn Chủng. Hai người này là tay trái và tay phải của Việt Vương, trợ giúp ông hồi phục quốc gia, tiêu diệt lại nước Ngô. Phạm Nặc thông minh, sau khi đại công cáo thành, ông liền khuyên Văn Chủng phải mau rời khỏi Việt Vương Câu Tiễn. Ông nhận biết rất rõ ràng con người này có thể cùng hoạn nạn nhưng không thể cùng phú quý, cho nên ông khuyên Văn Chủng nên rời khỏi để bảo toàn tánh mạng của chính mình. Việt Vương Câu Tiễn trong lúc hoạn nạn rất xem trọng những người có tài năng, nhưng khi thiên hạ thái bình thì ông không cần, sợ họ tạo phản, luôn tìm biện pháp để trừ bỏ họ. Phạm Nặc thông minh, ông tự mình rời bỏ, lưu lại một bức thư cho Văn Chủng. Sau khi Văn Chủng xem xong, cho rằng không nghiêm trọng như ông đã nói. Kết quả không ngoài dự đoán của Phạm Nặc, Câu Tiễn ban cho Văn Chủng tự chết, cho nên Văn Chủng phải tự sát. Giết công thần, ở Trung Quốc mỗi một triều đại gần như đều có việc như vậy. Phạm Nặc lén trốn đi, đổi tên đổi họ thành Đào Chu Công, làm nghề buôn bán. Ông men theo con đường Tây Thi mà làm ăn buôn bán. Làm ăn không bao lâu, ông phát tài to. Sau khi phát tài, ông đem tất cả tiền của ra bố thí hết, cứu tế bần khổ. Sau khi bố thí hết, ông bắt đầu lại từ buôn bán nhỏ. Làm được vài năm, ông lại phát tài, phát tài rồi ông lại bố thí. Trên sách sử ghi chép “tam tụ, tam tán”, ông có thể tán tài ra, bố thí ân đức. Đây là tấm gương tốt cho người buôn bán. Người làm buôn bán kiếm được tiền của xã hội thì hoàn trả về cho xã hội. Cho nên cúng dường ông là thần tài thì rất có đạo lý. Ông là thương nhân mô phạm, chúng ta kinh doanh buôn bán phải lấy Phạm Nặc làm mô phạm. Ông là người chân thật thông minh, thật có trí tuệ, thật có học vấn, không luận làm bất cứ việc gì ông đều thành công.
Cho nên, chúng ta phải hiểu được tán tài, biết được kết ân huệ với tất cả chúng sanh, trong Phật pháp chúng ta gọi là kết duyên. Chúng sanh nhận được ân huệ thì chính chúng ta có thể gặp nạn hay sao? Không thể nào! Không có gì ăn, tự nhiên có rất nhiều người đưa đồ ăn đến, bạn xem, tự tại dường nào! Không quần áo mặc, tự nhiên có rất nhiều người đưa quần áo đến cho bạn, bạn không thiếu bất cứ thứ nào; không có nhà để ở, có người đưa nhà cho bạn ở. Vì sao bạn có thể có quả báo như vậy? Bố thí! Chỉ cần bạn chịu bố thí thì được, phước báo tự nhiên, bạn nói xem, vậy có tự tại không? Cho nên tiền không nên đi đầu tư, tiền không nên để ngân hàng, để ở đâu cũng không đáng tin. Bố thí cho tất cả chúng sanh, đó mới là thật đáng tin, nhất định không thể mất, hơn nữa, lợi tức đó nhiều hơn không biết gấp bao nhiêu lần so với lợi tức mà ngày nay các vị làm bất cứ buôn bán gì. Tôi nói lời này với các vị là lời chân thật. Nếu các vị không tin tưởng, bản thân tôi chính là thí dụ. Bạn xem, mười phương cúng dường đến cho tôi, tôi thảy đều đem bố thí hết. Tôi đi đến bất cứ nơi nào, trên người không cần mang theo một phân tiền, nghĩ cái gì, người ta đều đưa đến cúng dường cho tôi, dùng không hết, như vậy thật tự tại. Thọ dụng trên đời sống vật chất chân thật là tùy tâm sở dục, không hề có kém khuyết chút nào. Con người của tôi đời trước không có phước, một chút phước báo cũng không có. Phước báo này của tôi là tu được từ lúc nào? Sau khi học Phật, hiểu rõ được đạo lý này, tôi mới thật làm. Phương pháp bố thí này là Đại Sư Chương Gia dạy cho tôi. Tôi thật làm và làm rất có hiệu quả. Tôi tin sâu, không nghi, chân thật tin tưởng. Đại Sư Ngài dạy tôi làm. “Phật thị môn trung, hữu cầu tắc ứng”, chỉ cần bạn chịu bố thí, nếu bạn thiếu kém thứ gì, trong lòng vừa nghĩ thì có người đưa đến liền. Tuyệt diệu không thể nói!
Những năm đầu tôi tu được còn tương đối ít, thế nhưng liền đã có cảm ứng. Khi tôi đang cầu học, đời sống của tôi rất là gian khổ, rất là khó khăn, người thông thường khó có thể trải qua được ngày tháng như vậy. Tôi mong muốn những gì? Kinh sách, muốn nghiên cứu Kinh giáo, muốn có Kinh sách. Trong lòng vừa nghĩ, đại khái không đến một tháng thì có người mang đến. Tôi chỉ nhớ có một quyển sách là “Trung Quán Luận Sớ”, tôi nghĩ qua sáu tháng mới có người mang đến cho tôi, đó là một lần dài nhất. Các thứ khác như “Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao”, khi tôi vừa mới học Phật, trong lòng muốn có loại này, thì chỉ trong một tháng có người mang đến cho tôi. Chân thật là “hữu cầu tất ứng”, chỉ cần mong cầu đúng lý đúng pháp thì đều có cảm ứng. Tôi hiểu rõ đạo lý này, thấu suốt chân tướng sự thật. Hơn nữa, từ nhiều năm đến nay, từ 26 tuổi học Phật thì tôi thật làm, do lão sư dạy cho tôi, tôi chăm chỉ làm. Càng làm càng có cảm ứng không thể nghĩ bàn. Cho nên, đối với từng câu từng chữ trên Kinh Phật đã nói, tôi tin sâu không nghi. Bạn có thể y giáo phụng hành thì chính mình được lợi ích. Đó là nói về tài bố thí.
Bố thí tài được tài phú, bố thí ăn uống thì bạn có được ăn uống, bố thí quần áo được quần áo, bố thí phòng ốc thì bạn được phòng ốc, linh nghiệm không thể nói. Bố thí Phật pháp được thông minh trí tuệ, được biện tài vô ngại, đó là điều mà mọi người đều cần đến. Phải tu pháp bố thí, phải tu pháp cúng dường. Bố thí vô úy rất đơn giản, rất thuận tiện chính là ăn chay. Ăn chay là từ nay về sau không hại tất cả chúng sanh. Tuy là trong Phật pháp không khuyên người ăn trường chay, Phật chỉ khuyên bạn không sát sanh, không hề khuyên bạn không ăn thịt. Bởi vì Thế Tôn năm xưa còn ở đời, tăng đoàn mỗi ngày bưng bình bát đi khất thực, Phật pháp là “từ bi vi bổn, phương tiện vi môn”, bạn đi ra ngoài khất thực, người ta cúng dường cho bạn thứ gì thì bạn ăn thứ đó. Giống như hiện tại quốc gia Tiểu thừa Phật giáo như Thái Lan, Srilanka, họ đều khất thực, họ đều ăn thịt, người ta cho thứ gì thì ăn thứ đó, không phân biệt, không chấp trước, vậy thì đúng. Tuyệt đối không thể bảo tín đồ đặc biệt phải làm đồ chay cho bạn, vậy thì quá phiền, không nên. Nếu như muốn nói đến bố thí vô úy, thì việc ăn chay đó rất quan trọng. Khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển lò sát sanh, tôi chưa đi tham quan qua, thế nhưng khi tôi còn nhỏ, sanh ra lớn lên ở trong nông thôn, trong nông thôn giết heo bán thịt, khi nhà bán thịt giết heo, họ nắm tai của heo lên nói với nó: “Heo ơi, heo ơi! Ngươi đừng trách ta. Ngươi là một món ăn của nhân gian. Họ không ăn thì ta không giết. Ngươi đi tìm người ăn mà đòi mạng đi”. Các vị thấy, họ đem tất cả trách nhiệm đổ cho người ăn, các vị người nào ăn thịt thì tiêu rồi, vấn đề sẽ rất nghiêm trọng. Họ đem trách nhiệm đổ hết cho người ăn, họ không có tội, tội lỗi đều là ở người ăn thịt. Cho nên chúng ta có thể ăn chay, có thể không ăn thịt tất cả chúng sanh, đó chính là vô úy bố thí, bồi dưỡng tâm từ bi của chính mình. Đây là việc tốt, bồi dưỡng tâm từ bi của chính mình, quyết không tổn hại bất cứ một chúng sanh nào. Không những là không thể sát hại, mà ngay đến làm cho chúng sanh vì ta mà sanh phiền não thì chúng ta liền có tội, có lỗi lầm. Cho nên bạn thấy, Phật Bồ Tát tiếp xúc với quần chúng rộng lớn, điều thứ nhất ở trong “Tứ Tất Đàn” đã nói rõ ràng là “khiến cho tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ”. Đó là Phật pháp, là Phật dạy cho chúng ta. Chúng sanh nào chán ghét chúng ta, khi chúng ta vừa xem thấy họ thì phải mau tránh ra xa, vậy thì họ vui mừng. Nhất định phải khiến cho chúng sanh sanh tâm hoan hỉ, thì những nơi mà chúng ta đến mới có người hoan nghênh chúng ta. Chúng ta ghét bỏ người khác, quả báo chính là làm cho người khác ghét bỏ chúng ta. Do đây có thể biết, người già là rất quan trọng. Người thanh niên thì phần nhiều ghét bỏ người già, không ưa thích người già. Nếu như bạn có cái tâm này, có loại hành vi này, vậy hỏi xem, bạn tương lai có già hay không? Nếu bạn không già thì bạn đoản mạng, nếu bạn không đoản mạng thì nhất định phải già. Khi bạn già thì phải nhận quả báo, bạn có hiểu hay không? Bạn còn trẻ mà ghét bỏ người già, khi bạn già rồi thì người trẻ sẽ ghét bỏ bạn. Nhất định sẽ chiêu đến quả báo, nhân duyên quả báo không sót chút nào. Không những không sót, mà hiện tại quả báo sẽ đến được rất nhanh. Bạn bình lặng mà quan sát, chân thật là ở ngay trước mặt, tạo nghiệp thì làm gì không bị quả báo chứ! Bạn tạo ra là nghiệp thiện, bạn nhất định được quả thiện, bạn tạo ra là ác nghiệp thì phải gặp ác báo.
Hiện tại các vị đều biết, thế gian này tai nạn càng lúc càng phức tạp, càng lúc càng nghiêm trọng. Tai nạn này là cộng nghiệp của cả chúng sanh thế gian, rất là đáng sợ. Chỉ hơn một năm qua, kinh tế suy thoái là mở đầu của tai nạn, là dự báo của tai nạn, vẫn chưa phải bắt đầu. Đây tuyệt đối không phải là việc tốt. Cho nên, mọi người nhất định phải ghi nhớ lời dạy của Phật, “rộng tu cúng dường”, “y giáo phụng hành”. Người học Phật chúng ta phải phước huệ song tu. Có phước, có huệ thì tốt. Giúp đỡ một số người nghèo khó, giúp đỡ một số người khổ nạn, giúp đỡ một số người già yếu, giúp đỡ một số người bệnh tật, toàn tâm toàn lực giúp đỡ họ. Phải thật làm, đem tài vật của bạn bố thí hết thật sạch trơn thì mới tốt, đời sống như vậy mới tự tại, mới tiêu diêu. Bạn phải biết, việc bố thí này chính là đem khổ, tai, nạn của bạn bố thí hết. Cái ý này rất là sâu rộng, các vị nhất định phải tỉ mỉ mà thể hội. Thế nên trên Kinh Phật nói với chúng ta: “Trong các cúng dường, cúng dường pháp là hơn hết”. Hơn nữa, trong tất cả Kinh Đại thừa, Phật đặc biệt nhắc nhở chúng ta, Phật thật là từ bi đến tột đỉnh, làm ra rất nhiều so sánh cho chúng ta xem, thậm chí nói, bạn dùng bảy báu của đại thiên thế giới bố thí cúng dường (phước này rất lớn, không ai có phước báo lớn đến như vậy), Phật chỉ nói thí dụ, thí dụ đến cùng tột, bạn dùng bảy báu của đại thiên thế giới tu bố thí cúng dường, phước đó của bạn rất to rất lớn, nhưng vẫn không thể so với phước báo của người vì người khác nói bốn câu kệ (bốn câu kệ là bốn câu trong Kinh văn), còn không thể so với công đức to lớn của người nói bốn câu Phật pháp. Ai có thể tin tưởng? Người có thể thâm nhập Kinh tạng thì tin tưởng. Đạo lý này ở đâu vậy? Bố thí bảy báu bằng đại thiên thế giới, chúng sanh có được lợi ích như thế nào? Người nghèo khổ có được cơm áo, người khổ nạn được sự cứu giúp, đời sống vật chất không thiếu kém, không có lo lắng, họ có được lợi ích này. Vậy chúng ta muốn hỏi, sanh tử luân hồi thì phải làm sao? Không thể giải quyết! Dùng bảy báu đại thiên thế giới bố thí, bạn cũng không thể thoát khỏi sáu cõi luân hồi, hay nói cách khác, chúng sanh có được lợi ích là rất có hạn, chỉ một đời, không thể đời đời kiếp kiếp. Sau khi bạn mạng chung rồi, bạn không thể mang đi được thứ gì, chính là ngay trong nhà Phật đã nói “vạn ban tương bất khứ” (chữ “tương” chính là mang), bạn không thể mang đi được thứ gì, “chỉ có nghiệp theo mình”. Bạn phải hiểu được đạo lý này.
Pháp bố thí, khi họ nghe được bốn câu Kinh văn này rồi cũng chính gọi là “một khi nghe qua tai, mãi đã trồng căn lành”, công đức này to lớn. Tuy trước mắt không thể giải quyết khổ nạn ấm no cho họ, thế nhưng tương lai họ quyết định nhờ một câu này mà có thể siêu việt ba cõi sáu đường, siêu việt mười pháp giới, làm Phật làm Tổ. Đó là chánh nhân, cái nhân này là vĩnh viễn không thể tiêu mất. Cho nên, công đức bố thí pháp rất lớn, thù thắng không gì bằng. Ở trên Kinh Phật đem pháp bố thí nêu ra bảy thí dụ cho chúng ta. “Bảy” đương nhiên không phải là chữ số, mà thảy đều là biểu pháp, là đại biểu viên mãn. Trên “Kinh Di Đà” đều dùng bảy để biểu thị. Trên “Kinh Hoa Nghiêm” thì dùng “mười” là nhiều nhất, tương đối ít thấy dùng “bảy”. Trong “Hạnh Nguyện Phẩm” nói đến cúng dường pháp là Ngài nêu ra bảy điều.
Thứ nhất, “Như thuyết tu hành cúng dường”.
“Như thuyết tu hành” là cúng dường, chính là chúng ta nói y giáo phụng hành. Điều này được xếp ở thứ nhất, ý nghĩa của Ngài sâu rộng vô tận. Chúng ta đem những gì Phật nói trong Kinh, mỗi câu mỗi chữ phải ghi nhớ rõ ràng. Cho nên, tôi khuyên các vị đồng tu, khi bắt đầu tu học, nhất định phải đem bộ Kinh này tụng ba ngàn biến. Đó là chuẩn bị công phu tu hành, không phải nói bạn tụng ba ngàn biến thì công phu của bạn thành tựu, không hề có việc như vậy, bạn tụng ba mươi ngàn biến cũng không được. Bước thứ nhất này chính là làm cho bạn ghi nhớ kỹ. Sau khi ghi nhớ phải cầu giải, ý nghĩa trong Kinh bạn phải hiểu, không hiểu ý nghĩa thì không ích gì. Bạn phải hiểu rõ đạo lý từng câu từng chữ trong Kinh đã nói, dạy cho chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày phải làm như thế nào, đó là then chốt. Bạn phải thấu hiểu (thấu hiểu là cầu giải). Sau khi hiểu thấu rồi vẫn chưa thể dùng được, việc này Lý lão sư thường hay nói “phải sanh tử thế nào vẫn là sanh tử như thế đó”, không cách gì thay đổi, cho nên sau khi tường tận thì phải cố làm theo. Giáo hóa của Phật bạn thảy đều làm được thì bạn mới chân thật được thọ dụng, bạn có thể làm được là bạn chân thật cúng dường Phật. Phật luôn muốn bạn nỗ lực tu hành. Bạn làm được chính là bạn nỗ lực tu hành. Chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày, đối với người, với việc, với vật, có ngày nào mà không phạm lỗi lầm? Lồi lầm mà chúng ta phạm, chính mình không hề biết. Vì sao không biết? Không rõ Kinh giáo, những lời dạy trong Kinh chúng ta không rõ ràng, không tường tận, đều cho rằng chính mình đã làm được rất đúng, làm gì biết được chính mình đang tạo tội nghiệp? Sự việc này buổi tối hôm nay e rằng không có thời gian giảng đến. Ngày mai tôi cùng mọi người giảng “Sám hối nghiệp chướng”. Nói đến sám hối nghiệp chướng thì phải nói đến vấn đề này. Ở ngay trong cuộc sống thường ngày làm sao phát hiện lỗi lầm của chính mình, làm thế nào đem lỗi lầm của chính mình thay đổi tu sửa lại, đó là pháp sám hối. Sám hối cùng tu hành chân thật chỉ là một sự việc, cho nên không thể phân ra.
Bạn có thể y giáo tu hành chính là chân thật cúng dường chư Phật Như Lai, bạn chính là đệ tử tốt của Phật. Phật đâu cần những hương hoa trái cây mà bạn bày cúng ở ngay trước mặt Ngài. Không cần nói Phật không hoan hỉ, tôi nhìn thấy những thứ này cũng không ưa. Người ta mời tôi ăn cơm, trên bàn bày rất nhiều thức ăn, tôi xem thấy cũng không ưa, huống hồ là Phật Bồ Tát? Cảnh giới của Phật Bồ Tát cao hơn tôi rất nhiều. Những thứ bày ở trước mặt, tất cả đều không muốn ăn, tất cả đều không cần đến, làm gì có được sự thanh đạm tốt hơn chứ? Phật Bồ Tát hy vọng chúng ta điều gì? Hy vọng chúng ta, mỗi một chúng sanh mau chóng thành Phật. Chúng ta thật lòng làm như vậy thì Phật mới sanh tâm hoan hỉ, cho nên mới gọi là chân thật cúng dường chư Phật, cũng cúng dường Bồ Tát, cũng cúng dường lão sư của chúng ta. Lão sư hy vọng chúng ta là học trò tốt, như vậy lão sư mới vinh hiển. Chúng ta có thành tựu thì trên mặt lão sư liền có ánh sáng. Chúng ta làm càn làm quấy, đang tận tạo nghiệp chướng thì vinh hiển của lão sư hoàn toàn bị mất hết. Cho nên, chân thật tu hành là chân thật cúng dường lão sư, cũng là chân thật cúng dường cha mẹ, tổ tiên của chính mình. Các vị thử nghĩ xem có đúng không? Bạn có thể y giáo tu hành, đặc biệt là y theo “Kinh Vô Lượng Thọ” mà tu hành, vậy còn gì bằng. Y theo “Kinh Vô Lượng Thọ” mà tu hành chính là mô phỏng A Di Đà Phật. Tuy học được nhưng không thể giống như A Di Đà Phật, cũng có được chút giống, có mấy phần giống nhau thì người ta vừa nhìn thấy bạn sẽ reo lên: “Ồ! A Di Đà Phật đến”, vậy thì cha mẹ của bạn liền biến thành cha mẹ của Phật Bồ Tát, tổ tiên của bạn liền biến thành tổ tiên của Phật Bồ Tát, như trong nhà Phật thường nói, “một người thành Phật, cửu huyền thăng” chính là đạo lý này. Đó là bạn chân thật cúng dường tổ tiên, cha mẹ của bạn, cũng là chân thật cúng dường chân như bổn tánh của chính mình. Sau khi quay đầu nhìn lại là chân thật cúng dường tận hư không khắp pháp giới tất cả chúng sanh. Bạn xem, chỉ “y giáo tu hành” mà phạm vi của cúng dường rộng lớn đến như vậy, tinh thâm đến như vậy, nếu bạn không thấu hiểu thì làm sao mà tu? Sau khi bạn chân thật thông hiểu thì bạn mới nỗ lực tu hành, phải đem Kinh này làm đến được 100%. Người khác làm hay không làm không liên quan với ta. Ta chính mình phải tu hành, chính mình phải làm cho được, phải làm ra một tấm gương tốt cho người xem. Cho nên, Phật đem điều này đặt ở điều thứ nhất, chúng ta nhất định phải y giáo phụng hành, nhất định phải thật làm.
Thứ hai, “Lợi ích chúng sanh cúng dường”.
Khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm của chúng ta, trong lòng nhất định phải rõ ràng, phải tường tận là đối với cả xã hội, đối với tất cả chúng sanh có lợi ích hay không. Có lợi ích thì chúng ta nỗ lực mà làm, nếu không có lợi ích thì nhất định không thể làm. Ngay trong lợi ích, thù thắng nhất là bố thí Phật pháp, đó là lợi ích thù thắng không gì bằng. Chúng ta phải nên phát tâm làm, khiến cho tất cả chúng sanh hoan hỉ, tín thọ, phụng hành. Đó là thành tựu công đức cúng dường của bạn.
Ở vào xã hội hiện đại này, chúng ta biết, có thể khiến cho chúng sanh có được lợi ích chân thật nhất là đem Phật pháp, đặc biệt là “Kinh Vô Lượng Thọ” của Tịnh Độ giới thiệu cho quần chúng rộng lớn ở thế gian này. Thế nhưng giới thiệu cũng phải có duyên phận. Ở trên đại Kinh đại Luận, Phật nói ra rất rõ ràng: “Phật pháp vô nhân thuyết, tùy trí mạc năng giải”, cho nên phải có người chân thật tu hành mới có thể giải đại pháp. “Năng giải Như Lai chân thật nghĩa”, người như vậy cần phải bồi dưỡng.
Cư sĩ Lý Mộc Nguyên xây dựng đạo tràng ở Singapore. Hiện tại ông đem lầu bốn, lầu năm tu sửa mới lại, phải tốn một trăm sáu mươi vạn. Ông làm là vì cái gì? Vì “lợi ích chúng sanh cúng dường”, ông làm chính là việc này, để mỗi một đồng tu đến đây nghe Kinh cảm thấy được đây là một loại hưởng thụ, đều có thể sanh pháp hỷ. Tôi nghe nói, hiện tại công trình này mới hoàn thành 20% và đang nỗ lực thi công. Ông mua ghế ngồi mới, các vị ngồi có thoải mái hay không? Nếu không thoải mái thì nói với Lý Mộc Nguyên, loại ghế này ngồi không được thoải mái. Ông có tâm muốn cúng dường, vậy thì phải cố gắng cúng dường. Tóm lại ông làm là để tất cả mọi người sanh tâm hoan hỉ. Bạn xem, lần đầu tôi đến Singapore giảng Kinh ở đoàn Hoằng Pháp Thanh Niên. Khi đoàn mới vừa mới làm xong, tôi lần đầu giảng “Kinh Vô Lượng Thọ”, các đồng tu ngồi ghế tròn nhỏ, tôi xem thấy rất là đau lòng, nên nói với ông: “Không được! Mọi người ngồi nơi đó hai giờ đồng hồ, tôi thấy không chịu nổi”, cho nên sau đó mới đổi thành ghế dựa. Hiện tại dần dần càng đổi càng tiến bộ, càng đổi càng tốt hơn, nơi chốn thì càng ngày càng đẹp. Trước kia không có máy lạnh, không có máy điều hòa, hiện tại đều có, mọi thứ ông đều không ngừng đang cải thiện. Vì sao vậy? Vì để lợi ích chúng sanh.
Những đĩa ghi hình mà chúng ta đã giảng ngay tại hiện trường, chúng ta lập tức cho vệ tinh phát sóng. Hiện tại, đài truyền hình đang phát sóng tiết mục của chúng ta. Mỗi một ngày chúng ta phát sóng một giờ đồng hồ. Toàn đảo Đài Loan, kể cả Bắc Mỹ châu, Hoa Kỳ, Canada, Panama, Mexico, những khu vực này đều có thể xem thấy, đều có thể thâu nhận được, cho nên thính chúng không chỉ có các vị ở nơi đây mà còn rất nhiều, rất nhiều. Ba tuần lễ trước, đài truyền hình phát thanh Hạ Uy Di cũng bắt đầu phát sóng. Cho nên trong tương lai, sự truyền bá Phật pháp nhất định phải lợi dụng khoa học kỹ thuật cao, lợi dụng vệ tinh, truyền hình, đường truyền internet, hiện trường giảng Kinh của chúng ta được truyền đi rất nhanh, phổ biến đến toàn thế giới. Trên đường truyền internet, ở bất cứ quốc gia, khu vực nào có vi tính thì đều có thể thâu nhận được. Tôi nghĩ, một vài năm nữa, trong màn hình vi tính không chỉ có văn tự mà còn có hình, có âm thanh, chỗ này còn thù thắng hơn so với phát sóng truyền hình vệ tinh.
Làm thế nào đem Phật pháp giới thiệu cho đại chúng, đó là việc mà mỗi một đồng tu chúng ta phải cố gắng nỗ lực mà làm. Bạn có thể đem tin tức giảng Kinh bên đây nói cho thân bằng quyến thuộc của bạn, họ biết được rồi họ cũng sẽ đến nghe. Họ nghe Kinh, nghe pháp, tương lai họ làm Phật là bạn đã độ họ rồi. Bạn là người giới thiệu là bạn đã độ họ. Do đây có thể biết, phổ độ chúng sanh là việc mà mỗi một người chúng ta đều có thể làm, hơn nữa đây là việc không khó khăn, rất dễ làm. Phương pháp để làm thì rất nhiều. Singapore bên đây có rất nhiều Bồ Tát có trí tuệ thông minh. Bạn xem, họ làm quảng cáo trên áo, cũng là bố thí cúng dường các vị, phía sau áo có câu “A Di Đà Phật”, phía trước cũng có “A Di Đà Phật”. Bạn mặc lên trên người, đi qua trên đường, không biết là đã độ được bao nhiêu người. Họ xem thấy câu “A Di Đà Phật”, một khi nghe qua tai, mãi đã trồng thiện căn. Những người đó thảy đều được bạn độ rồi, vô cùng là hi hữu khó được. Đương nhiên trong đó quan trọng nhất là phải bồi dưỡng nhân tài về sau. Phật pháp không thể đến chúng ta thì bị đoạn tuyệt. Chúng ta nhất định phải toàn tâm toàn lực bồi dưỡng nhân tài về sau.
Việc bồi dưỡng nhân tài về sau, ở Singapore làm được rất tích cực. Từ năm trước bắt đầu mở lớp bồi dưỡng, đến khóa trước là chúng ta đã mở được ba khóa. Ba khóa này rất thành công, nhưng đáng tiếc là thời gian hơi ngắn một chút. Từ khóa này, chúng ta mở lớp chuyên “Hoa Nghiêm”. Nguyên bản thì chúng ta dự tính “Kinh Hoa Nghiêm”, bộ Kinh lớn này. Ở trong lớp học chúng ta đã bắt đầu khai giảng.
Hiện tại rất nhiều đồng tu đều biết “Hoa Nghiêm” hay, “Hoa Nghiêm” rất có ý nghĩa, có nghĩa lý rất sâu. Mấy ngày qua tôi giảng “Lễ kính chư Phật, “Xưng tán Như Lai”, “Quảng tu cúng dường”, đó đều là ở trong “Hoa Nghiêm”. Đạo lý rất sâu, hơn nữa còn liên quan mật thiết với đời sống chúng ta. Sau khi học rồi, về nhà lập tức liền dùng được ngay, dùng ngay trong cuộc sống của bạn, dùng trong công việc của bạn, dùng ở nơi đối nhân xử thế của bạn. Cho nên, chúng ta quyết định giảng “Kinh Hoa Nghiêm” tại nơi đây, để mọi người đều có cơ hội được nghe. Nghe băng đĩa thì không bằng như hiện trường, băng đĩa thì kém rất xa so với hiện trường. Các vị có biết kém ở chỗ nào không? Đó là từ trường không giống nhau. Các vị đến ngồi tại nơi đây hai giờ đồng hồ, đích thân cảm thụ Phật quang phổ chiếu, vô lượng thiện thần vây xung quanh chúng ta, cho nên từ trường này thuần thiện, không ác. Bạn ở ngay nơi đây tâm địa thanh tịnh, tâm khai ý giải, vậy thì làm sao giống nhau được? Bạn ngồi ở trước máy truyền hình lắng nghe, bạn không dễ gì khai ngộ, còn tại hiện trường dễ dàng khai ngộ. Tại hiện trường, sức mạnh Phật lực gia trì rất lớn, tôi – người giảng được Phật lực gia trì, các vị – người nghe cũng được Phật lực gia trì, cũng như trên “Kinh Địa Tạng” đã nói: “Đại viên mãn quang minh vân”, ở trên đỉnh đầu chúng ta, cho nên đến nơi đây thì người người đều có thể sanh tâm hoan hỉ.
Việc bồi dưỡng nhân tài, chúng ta chọn lấy phương pháp cũ của Trung Quốc. Phương pháp cũ là như thế nào? Là từ ngay trong thính chúng, ai chân thật phát tâm muốn học giảng Kinh thì đến báo danh tham gia giảng tiểu tòa. Việc bồi dưỡng nhân tài là như vậy mà bồi dưỡng. Bạn đến tham gia giảng tiểu tòa, tập giảng lại mà không cần nghe lại băng đĩa của tôi. Tại hiện trường buổi tối hôm nay bạn nghe giảng rồi, ngày mai bạn đem những gì tôi giảng tối hôm nay giảng lại một lần. Khi bạn nghe Kinh, bạn cũng có thể viết bút ký.
Vậy bạn phải tập giảng lại đến trình độ nào vậy? Buổi tối, tôi ở đây giảng hai giờ đồng hồ, sáng sớm ngày hôm sau, bạn đem tất cả những gì tôi đã giảng trùng tuyên giảng lại một lần. Nếu bạn có thể giảng được một giờ thì đạt chuẩn, bạn có thể học giảng Kinh. Nếu như không giảng được một giờ đồng hồ thì bạn nên cố gắng mà nghe Kinh, không nên học giảng Kinh. Tiêu chuẩn này của tôi là hạ thấp xuống rất nhiều, hạ đến phân nửa. Thời xưa, lão sư không hề chịu giảm bớt, yêu cầu của lão sư là sau khi bạn có năng lực nghe rồi, ngày hôm sau có thể giảng lại được ít nhất là 80%, không dựa vào băng ghi âm, băng ghi hình, mà dựa vào sức nhớ của bạn, dựa vào lý giải của bạn, phải có năng lực này thì mới đưa bạn ra để bồi dưỡng cho bạn, để bạn làm pháp sư giảng Kinh. Trong bốn chúng đồng tu, ai có năng lực này đều có thể phát tâm học giảng Kinh, không nhất định phải là người xuất gia, đồng tu tại gia cũng đều có thể phát tâm. Hiện tại chúng ta có rất nhiều giảng đường có thể giảng, Cư Sĩ Lâm có thể giảng, chùa Trúc Lâm cũng có thể giảng, Pháp Luân Xã cũng có thể giảng. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói với tôi, qua hai hôm, dường như ở Quang Minh Sơn tôi có ba lần diễn giảng, dần dần sẽ có rất nhiều nơi để giảng. Ở khu vực này có phước, Phật pháp trên toàn thế giới, chỉ có Singapore là chánh pháp hưng vượng, đó là phước báo của khu vực này. Thế gian này có tai nạn lớn, nhưng khu vực này thì không bị tai nạn, chư Phật bảo hộ, chân thật là Phật quang chiếu lấy khu vực này, đương nhiên phải dựa vào thiện tâm của bốn chúng đồng tu chúng ta mà đến hộ trì.
Về việc học giảng Kinh, ngày trước tôi đã nói qua rất nhiều, có lẽ các vị đã nghe qua, nhưng sau khi nghe rồi thì sớm đã quên mất. Pháp sư mới học lên đài giảng Kinh cũng giống như là trồng cây vậy, đó là cây mới trồng, phải cố gắng tưới nước, cố gắng bồi dưỡng. Làm thế nào chăm sóc, làm thế nào bồi dưỡng? Khi họ lên đài giảng Kinh, các vị phải đến nghe, ở trên đài họ nhìn thấy, “Ồ! Có rất nhiều người đến nghe như vậy, đại khái ta giảng cũng không tệ”, thì họ liền có tín tâm. Nếu như họ nhìn thấy phía trước chỉ có một hai hàng, phía sau thì không có người nào, vậy thì tín tâm tiêu mất, mất đi lòng tự tin, họ lập tức thoái tâm, hứng thú học tập của họ sẽ không được phát khởi. Cho nên nhất định phải có người đến nghe, giảng không hay cũng phải đến nghe. Họ giảng xong rồi cũng vỗ tay cổ vũ họ, làm cho họ hoan hỉ, làm cho họ có tín tâm, làm cho họ biết có nhiều thính chúng đến như vậy, bức họ phải lên đài giảng, bức họ phải cố gắng nỗ lực học tập. Nếu họ không cố gắng nỗ lực học tập, lần sau giảng tệ hơn lần trước thì thính chúng sẽ ít đi, không còn nữa, vậy thì họ sẽ rất xấu hổ. Thính chúng không những nên nghe mà còn phải khích lệ họ, hơn nữa còn phải cố gắng phê bình, giúp đỡ họ cải tiến. Có chỗ nào họ giảng không hay, có chỗ giảng hàm hồ, có chỗ giảng sai, có chỗ giảng không hiểu hoặc có chỗ nào chúng ta sanh nghi hoặc thì đều phải nêu ra, giúp đỡ họ không ngừng cải tiến, như vậy mới là chân thật bồi dưỡng pháp sư trẻ tuổi. Cho nên, pháp sư mới học lên giảng đài nhất định phải biết, thính chúng ngồi bên dưới đều là lão sư, đều là giám học, không được xem họ là thính chúng, học trò ở trên giảng đài, thầy giáo thì ngồi ở phía dưới, bên dưới thảy đều là thầy giáo. Dùng tâm báo ân để giảng, tâm cung kính để giảng, dùng tâm khiêm tốn để học giảng thì chúng ta mới có thể có thành tựu. Như vậy bạn đến nghe họ giảng thì công đức của bạn sẽ lớn, bạn thay Tổ sư đại đức, thay chư Phật Bồ Tát bồi dưỡng nhân tài tiếp nối huệ mạng Phật về sau. Cho nên, bạn đến nghe pháp sư học giảng Kinh giảng, công đức sẽ rất lớn, còn lớn hơn so với nghe tôi giảng Kinh. Cơ duyên này vô cùng hi hữu, toàn thế giới chỉ có Singapore có, ngoài nơi này ra, bạn đến nơi đâu để tìm? Không tìm được cơ hội này, cho nên các vị đồng tu phải cố gắng nắm lấy. Ngày ngày họ ở nơi đây giảng Kinh, các vị ngày ngày đến nơi đây tu pháp cúng dường, thành tựu nhân tài tiếp nối Phật pháp, thành tựu chánh pháp cửu trụ thế gian.
Loại thứ ba, “Nhiếp thọ chúng sanh cúng dường”.
Điều này cũng không dễ. Chính mình cần phải có đức hạnh, có tu trì, có học vấn thì bạn mới có thể “nhiếp thọ” lòng người. Nếu dùng lời hiện tại mà nói, nhiếp thọ chính là họ có một năng lực rất mạnh có thể thu phục lòng người, người hiện tại, người buôn bán đều gọi là tâm lý học. Làm thế nào nắm lấy tâm lý của quần chúng, làm thế nào có thể hiểu rõ được tâm lý của chúng sanh, dẫn dắt họ quay về chánh pháp, đó chính là trong Phật pháp gọi là “nhiếp thọ chúng sanh cúng dường”. Hay nói cách khác, loại cúng dường này thực tế ra là thay thế tất cả chư Phật tiếp dẫn chúng sanh (đặc biệt trong Tịnh Độ tông gọi là tiếp dẫn), chúng ta phải tiếp dẫn tất cả chúng sanh quy hướng Tịnh Độ, chỉ có pháp môn này là một đời quyết định được độ. Không những bạn phải tiếp dẫn, phải khuyên bảo đối với những người bạn đã quen biết, mà đối với tất cả chúng sanh cũng phải tiếp dẫn họ, cũng phải dẫn dắt họ. Hiện tại trong nhà của bạn, trong các chung cư lớn có rất nhiều chúng sanh (chuột, gián, ruồi, muỗi … đều là chúng sanh), bạn đều phải nên giáo hóa chúng niệm Phật, khuyên bảo chúng xả bỏ thân súc sanh, cái thân đó rất khổ, khuyên bảo chúng nó niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đối với tất cả động vật chúng ta còn phải như vậy thì đối với người đương nhiên càng phải thương yêu.
Chúng ta dùng phương pháp gì để nhiếp thọ chúng sanh? Dùng Phật tượng, Phật hiệu. Hiện tại máy niệm Phật rất phổ biến, người niệm Phật chúng ta, câu Phật hiệu ở trong nhà 24 giờ không gián đoạn. Nếu bạn nói “người trong nhà tôi không tin Phật, người trong nhà phản đối tôi niệm Phật”, đó là vì chính bạn tu chưa được tốt. Theo lý mà nói, học trò của A Di Đà Phật rất được tất cả chúng sanh hoan nghênh. Bạn là học trò của A Di Đà Phật mà không được mọi người hoan nghênh thì nhất định có vấn đề. Bạn phải cố gắng mà phản tỉnh, cố gắng kiểm điểm, nhất định là chính chúng ta làm không được đúng như pháp. Nếu chính mình làm được đúng y như lý, như pháp thì làm gì có chuyện không được người hoan nghênh chứ? Nhất định nhận được người nhà hoan nghênh. Đại khái việc lễ kính này đối với người trong nhà của bạn, bạn làm không được tốt, “tôi học Phật rồi, nhất định tương lai tôi sẽ vãng sanh làm Phật. Các người không học Phật đều có tội, tương lai đều phải đọa địa ngục”, vậy làm sao bạn có thể cùng sống hòa thuận được với người nhà của bạn chứ? Oan gia đối đầu, vậy thì không thể được, nhất định phải tu lễ kính. Ngày trước chưa học Phật nên không hiểu được cung kính; hiện tại học Phật rồi, đối với tất cả người lớn người nhỏ trong nhà, bạn đều chân thành cung kính, vậy bạn mới thật học Phật, thật đã thay đổi, vậy thì người cả nhà của bạn làm gì mà không hoan hỉ, làm gì mà không tiếp nhận chứ? Ngày trước không biết tán thán người khác, hiện tại biết tán thán người khác; người trong nhà có lỗi lầm tuyệt đối không nhắc đến, không nên để trong lòng; người nhà có gì tốt thì phải khen ngợi, vậy thì vận khí của cả nhà bạn thật có thể thay đổi. Nhà nhà đều làm như vậy thì liền thay đổi được tập quán của xã hội.
Cúng dường là gì vậy? Cúng dường là phục vụ, nhiệt tâm vì gia đình phục vụ, trong nhà có rất nhiều người già trẻ lớn nhỏ, vì họ mà phục vụ, chăm sóc đời sống đi lại cho họ, đó chính là cúng dường. Chúng ta dùng thể lực, dùng lao tác để phục vụ, đó cũng là tài cúng dường. Tài có nội tài, ngoại tài, chỗ này gọi là nội tài. Nội tài còn thù thắng hơn so với ngoại tài. Dùng trí tuệ của chúng ta để nâng cao mức sống của gia đình, mong muốn người cả nhà trải qua được hạnh phúc hơn, an vui hơn, vậy chính là bạn đang dùng pháp cúng dường. Bạn dùng trí tuệ để tư duy làm thế nào thay đổi hoàn cảnh trong nhà, khiến cho làm việc thì an tâm làm việc, nỗ lực làm việc, chăm chỉ làm việc; đi học thì nỗ lực học tập, chăm chỉ học tập, chân thật là một gia đình mỹ mãn. Mở rộng ra chính là xã hội hài hòa, xã hội bình yên. Đó thảy đều là ở trong sự cúng dường. Nếu như chúng ta không làm được, chỉ một mực trách cứ người khác thì là sai lầm. Bạn chân thật tu học đúng lý, đúng pháp thì quyết định có thể nhiếp thọ chúng sanh. Nhiếp thọ là gì? Khiến cho người ngưỡng mộ, khiến người noi theo, làm cho người tự động tự phát, hy vọng đến học tập với bạn, đến thỉnh giáo với bạn, đó chính là nhiếp thọ có sức mạnh. Cho nên chúng ta phải chân thật làm đến “nhiếp thọ chúng sanh cúng dường”, nhất định phải làm một tấm gương tốt cho chúng sanh thấy, làm một tấm gương tốt cho xã hội.
Thứ tư, “Đại chúng sanh khổ cúng dường”.
Trên Kinh Phật đã nói, thọ dụng của cả một đời của tất cả chúng sanh đều là tự làm tự chịu, làm gì người khác có thể thay thế chứ? Không ai có thể thay thế cho ai. Thế nhưng ngay trong không thể thay thế cũng có gần giống như thay thế, chúng ta phải nỗ lực làm.
Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Đại Sĩ đã siêu việt mười pháp giới, vì sao các Ngài còn trở lại mười pháp giới, còn trở lại sáu cõi, thậm chí còn trở lại ba đường? Tùy loại hóa thân, như trong Phổ Môn Phẩm đã nói, đáng dùng thân gì để độ, Ngài liền hiện thân đó để độ; đáng dùng thân người để độ, Ngài liền hiện thân người; đáng dùng thân Phật để độ, Ngài liền thị hiện thân Phật; đáng dùng thân súc sanh để độ, Ngài liền hiện thân súc sanh để độ; thậm chí đáng dùng thân cỏ cây để độ, thì Ngài liền hiện thân cỏ cây. Thí dụ, Phật Bồ Tát đến thế gian này thọ thân người, cũng trụ thế mấy mươi năm, như Thích Ca Mâu Ni Phật là một thí dụ hay, Ngài trụ thế 80 năm, giảng Kinh nói pháp cho chúng ta nghe 49 năm. Khi Thế Tôn Ngài còn ở đời, tình hình đời sống giống y như chúng ta, thậm chí còn khổ cực hơn chúng ta, mỗi ngày Ngài phải đi ra ngoài khất thực, đời sống khổ như vậy Ngài có thể không cần phải chịu, thế nhưng Ngài bằng lòng nhận chịu đời sống này, làm ra một tấm gương để cho chúng ta xem, thay chúng sanh chịu khổ, đều là khiến cho tất cả chúng sanh giác ngộ. Chúng sanh mê hoặc điên đảo ở trong thế gian này, không hiểu rõ chân tướng sự thật, ngày ngày tranh danh đoạt lợi, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, về sau rơi vào ba đường chịu khổ, bạn nói xem có oan uổng không? Cho nên, Thế Tôn vì chúng ta thị hiện. Bạn xem, người ta muốn danh, muốn quyền lực, muốn địa vị, Ngài là một vương tử, vậy thì thứ nào mà Ngài không có chứ? Địa vị của Ngài là quốc vương; quyền lực của Ngài là lớn nhất trong một nước, không ai có thể so sánh với Ngài; tiền của của Ngài, người xưa thường hay nói: “Quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải”, ai có thể so bì được? Người khác muốn tranh, Ngài thì đã có rồi, đã đầy đủ rồi, Ngài xả bỏ, thảy đều buông bỏ. Đó chính là nói với chúng ta, những thứ đó đều là giả, không phải là thứ tốt. Thứ nào là thật, thứ nào là thứ tốt vậy? Tu hành! Ngài chân thật làm ra một tấm gương tốt, dạy bảo chúng ta nhìn thấu, buông bỏ. Nếu như chính Ngài không làm được, mà dạy chúng ta nhìn thấu buông bỏ thì làm sao chúng ta chịu tin tưởng? Ngài chẳng những đã làm được, mà còn làm đến được viên mãn, chúng ta tin tưởng là chúng ta học tập một tấm gương tốt.
Ngày nay, trong đồng tu chúng ta cũng có không ít người giàu có. Nếu như bạn có thể đem đời sống giàu có của chính mình hạ thấp xuống một bậc, bạn đem những tiền của này đi bố thí, đi giúp đỡ những chúng sanh khổ nạn, đời sống của bạn hạ xuống một bậc thì khổ rồi, là thay chúng sanh chịu khổ. Như cư sĩ Liễu Phàm trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” có một đoạn ghi chép là vợ của Viên Liễu Phàm mỗi năm vào mùa đông thì may áo bông, áo len cho con cái. Ông liền nghĩ người nghèo rất nhiều, mùa đông người không có áo để mặc rất nhiều, nên ông đem áo bông bán đi để làm áo gòn, vậy thì một bộ có thể đổi được ba bốn bộ, người trong nhà cũng không thiếu, dư ra thì có thể bố thí cho người khác, thay khổ cho chúng sanh. Cho nên, chính chúng ta ở trong cuộc sống nên tiết kiệm một chút, chịu khổ một chút để có thể giúp đỡ chúng sanh một chút. Thường hay giữ tâm này chính là thay chúng sanh chịu khổ. Chúng ta phải thường nghĩ đến, thế gian có rất nhiều người khổ. Đời trước chúng ta tu được một chút phước, không nên ở ngay trong đời này hưởng hết phước. Phải biết được không ngừng tiếp tục tu phước thì phước báo của chúng ta không cùng tận, phước báo này sẽ kéo dài.
Vào thời xưa, Ấn Độ, Trung Quốc, đệ tử nhà Phật không luận tại gia hay xuất gia, rất nhiều người tu khổ hạnh. Không phải họ không thể cải thiện đời sống của họ, mà chính là mỗi niệm của họ nghĩ đến thế gian vẫn còn có nhiều chúng sanh khổ. Trong số người xuất gia đầu năm dân quốc, Lão hòa thượng Hư Vân, Đại Sư Ấn Quang là những tấm gương tốt của người xuất gia chúng ta. Hai vị đại đức này đều rất tuyệt vời, tín đồ của các Ngài thật quá nhiều. Tín đồ cúng dường đối với các Ngài rất là phong phú, thế nhưng Lão hòa thượng Hư Vân chưa từng may một bộ quần áo mới nào. Chúng ta đã xem thấy rất nhiều hình chụp của Lão hòa thượng, quần áo mặc trên người đều là đắp vá rất nhiều chỗ. Tôi chưa thấy trên tấm hình nào của Ngài mà quần áo không có đắp vá, chứng tỏ là Ngài không hề may một bộ quần áo mới. Quần áo mới của Ngài có hay không? Có rất nhiều. Tín đồ vừa nhìn thấy Lão hòa thượng mặc quần áo rách thì lập tức đưa quần áo mới đến, chất liệu tốt, thợ may đẹp, kỹ thuật may cao, Lão hòa thượng cũng không xem qua, đợi tín đồ đi rồi, Lão hòa thượng liền đem đi cúng dường người sơ học, vì người mới tu không có người cúng dường. Lão hòa thượng vẫn mặc đồ rách cũ, chịu khổ thay cho chúng sanh. Ngài thật làm. Đại Sư Ấn Quang được cúng dường cũng nhiều, Lão hòa thượng đem tất cả đồ cúng dường đi làm công việc hoằng pháp lợi sanh. Cả đời của Đại Sư Ngài chỉ làm việc như vậy, thật gọi là một môn thâm nhập. Ngài ở chùa Báo Ân – Tô Châu thành lập một Hoằng Hóa Xã, dùng lời hiện tại mà nói, chính là nơi lưu thông Kinh Phật, đem tiền cúng dường của mười phương làm thành tiền vốn, in sách tặng cho, đến khắp nơi kết duyên với người. Sách của Hoằng Hoá Xã in rất đẹp, có thể gọi là sách thiện, hiệu đính rất kỹ lưỡng, rất ít chữ sai, in rất rõ ràng, khổ sách rất rộng, rất đẹp mắt. Cả đời Ngài chỉ làm một việc như vậy. Làm sao chúng ta biết được? Khi Ngài làm “Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội” ở Thượng Hải, trong lúc diễn giảng có nhắc đến phương bắc có tai nạn, Ngài trích ra từ trong tài khoản in Kinh ba ngàn tiền đại dương đi cứu trợ. Tiền cứu trợ của Ngài là lấy từ trong quỹ in Kinh. Do đây có thể biết, tất cả tiền của Ngài, từng li từng tí đều đem đi in Kinh bố thí, không hề đem đi làm việc khác. Đời sống của Lão hòa thượng vẫn giống y như mọi người, không hề cải thiện đời sống, không hề có việc muốn ăn một chút gì đó ngon hơn, không hề may một bộ đồ mới nào, cũng không hề chỉnh lý hoàn cảnh nơi ở của chính mình chút nào. Không phải Ngài không có tiền, không phải không có người cúng dường Ngài. Có! Nhưng vẫn trải qua ngày tháng cực khổ như vậy là Ngài thay chúng sanh chịu khổ, vĩnh viễn không quên thay chúng sanh chịu khổ. Ta giảm bớt một phần hưởng thụ, liền giảm bớt một phần chúng sanh khổ. Đó đều là việc chúng ta nên học tập. Chúng ta thường giữ tâm như vậy, thường hay làm việc làm như vậy, thì đời đời kiếp kiếp chúng ta sẽ không có khổ nạn. Quả báo là như vậy, bạn có thể thay chúng sanh chịu khổ thì làm sao bạn có thể khổ?
Hiện tại xã hội này có nhiều người khổ nạn, nhất là những người cùng khổ bị bệnh càng đáng thương, người bị bệnh tương đối đáng thương, cho nên có không ít đoàn thể tôn giáo làm công việc từ thiện, xây bệnh viện, bố thí thuốc men, đây là việc tốt. Xã hội hiện đại giàu có, dự phòng đối với bệnh tật, mỗi một người đều chú ý đến, cho nên quốc gia đối với nhân dân có chăm sóc, điều trị. Mỗi chúng ta cũng sẽ có một ít tài vật để dự bị khi bị bệnh, khi có khổ nạn thì dùng. Người chân thật thông minh thì đem những tiền này bố thí hết, đem phí chuẩn bị thuốc thang của ta bố thí cho những người bệnh đó. Những tài vật dự bị khi có cấp nạn cũng đều đem đi cứu nạn hết. Có lẽ bạn muốn hỏi, đến khi chính mình bị bệnh thì phải làm sao? Xin nói với các vị, nhất định bạn sẽ không bị bệnh. Vì sao vậy? Vì phí thuốc men bạn bố thí hết rồi. Phí thuốc men của bạn để ở nơi đó thì nhất định bạn sẽ bị bệnh, không bị bệnh thì tiền đó làm sao dùng? Cho nên bạn không thể không bị bệnh. Bạn muốn chuẩn bị số tiền để phòng tương lai khi có tai nạn, vậy thì bạn nhất định gặp nạn. Phật pháp nói rất hay: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Bạn không có bệnh mà bạn nghĩ bệnh thì phải bị bệnh; không có nạn, muốn chuẩn bị tương lai có nạn, cho nên tai nạn cùng tật bệnh của bạn nhất định không thể tránh khỏi. Nếu bạn đem đi bố thí hết, trong lòng thản nhiên, bạn cũng sẽ không gặp nạn, cũng sẽ không bị bệnh, bạn thấy tự tại dường nào. Tại vì sao không đem nó xả hết?
Hôm nay tôi giảng cho bạn nghe “trồng nhân như thế nào thì bạn sẽ gặp quả báo như thế đó”, nhất định sẽ không hề sai biệt. Cho nên, chúng ta phải hiểu được thay chúng sanh chịu khổ. Nếu chúng ta có thực lực thì tận hết sức mà làm. Đặc biệt là chúng sanh cử thế ngày nay, bạn phải nên biết, khổ nạn lớn nhất là không nghe được Phật pháp, bao gồm trong tất cả khổ nạn của chúng sanh, không có khổ nạn nào lớn hơn so với khổ nạn không nghe được Phật pháp. Nếu nghe được Phật pháp thì họ giác ngộ, không nghe Phật pháp thì vĩnh viễn mê hoặc điên đảo, ngày tháng của họ càng ngày càng khổ, càng mê càng sâu. Cho nên, hôm nay chúng ta bố thí Phật pháp, đó chính là một trong những điều thay chúng sanh chịu khổ thù thắng nhất. Nếu có thực lực thì xây đạo tràng, thỉnh pháp sư giảng Kinh nói pháp, giúp đỡ chúng sanh một phương này phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Bạn nói xem, việc này quan trọng dường nào! Phải làm đạo tràng như thế nào vậy? Phải làm một đạo tràng mô phạm, đạo tràng thúc đẩy giáo dục của Phật Đà; đạo tràng này không làm Kinh sám, không làm pháp sự, không làm pháp hội.
Đạo tràng Tịnh tông của chúng ta là thuần Tịnh tông, buổi tối giảng Kinh, ban ngày niệm Phật. Có lẽ các vị muốn hỏi, đạo tràng mà không có làm pháp hội, không có pháp sự, thì thu nhập phải làm sao? Nếu như bạn chân thật muốn làm như vậy mà bạn bị chết đói thì chúng ta không cần phải tin Phật, vậy Phật pháp là giả. Bạn chân thật tu hành đúng pháp, không cần phải đi phan duyên một người nào, không cần phải đi nịnh bợ một người nào, không cần phải xin tín đồ một xu nào, nếu như bạn chết đói thì vị thần hộ pháp thứ nhất trong Phật pháp là Bồ Tát Vi Đà phải bị cách chức để điều tra. Đây là thật, không phải là giả. Cho nên, đạo tràng này nhất định được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ. Tuy là bạn không thể dư giả, nhưng đời sống của bạn quyết định không có vấn đề, đó là việc nhất định. Lương thực của bạn hết rồi thì Bồ Tát Vi Đà sẽ tìm một số người đưa lương thực đến cho bạn, không thể để cho bạn thiếu hụt, không thể để cho bạn đói khát, cũng không thể để cho bạn lạnh rét. Chỉ cần bạn một lòng niệm Phật thì tốt, một lòng làm đạo thì tốt, danh vọng lợi dưỡng thảy đều buông bỏ, tâm địa thanh tịnh – bình đẳng – giác, đó gọi là đạo tràng chánh pháp. Nếu các vị có thể xây dựng một đạo tràng như vậy thì đó là đạo tràng mô phạm. Không luận đạo tràng lớn hay nhỏ, ở trong đó cộng tu, bốn chúng đồng tu đều có thể tuân theo sáu phép hòa kính, thì đạo tràng này của bạn là một đạo tràng đệ nhất thế gian, công đức đó thù thắng không gì bằng. Bạn đem phước báo của chính bạn giảm ít đi một phần để xây dựng đạo tràng như vậy, lễ thỉnh pháp sư đến giảng Kinh nói pháp, lãnh đạo đại chúng niệm Phật, như vậy thì giải hành tương ưng, chân thật là thay chúng sanh chịu khổ. Cho nên chính mình có phước thì không nên ở ngay trong đời này tận hưởng hết phước báo của mình, hưởng hết rồi thì đời sau sẽ không còn phước báo nữa. Nếu như bạn hiểu được tu phước như vậy, phước báo đời sau sẽ không thể nghĩ bàn.
Thứ năm, “Cần tu thiện căn cúng dường”
Điều này là then chốt. Thiện căn chính là tất cả thiện pháp từ ở nơi gốc này mà sanh ra, nên gọi là thiện căn. Thiện căn là gì vậy? Trên Kinh Phật nói, thiện căn của thế gian pháp có ba điều là không tham, không sân, không si, chúng ta phải nỗ lực mà tu. Trái ngược lại là tham-sân-si, gọi là ba độc phiền não. Có những thứ này thì thật bất an, trong lòng của bạn có tham-sân-si, có ba độc, hiện tại chúng ta gọi là bệnh độc. Đó là bệnh độc nghiêm trọng nhất, bao gồm tất cả bệnh độc thế gian này đều không lợi hại bằng thứ này. Bệnh độc thế gian có nghiêm trọng hơn thì nhiều nhất chỉ là chết một mạng này mà thôi. Sinh mạng này của bạn không thể sống nữa thì có gì đáng sợ đâu, chỉ là một việc nhỏ thôi. Bệnh độc tham-sân-si này rất phiền phức, quả báo của tham là ở đường ngạ quỷ, quả báo của sân hận là ở đường địa ngục, quả báo của ngu si thì ở đường súc sanh, bạn nói xem, phiền phức này có lớn hay không? Bạn mất đi thân người thì không thể có được thân người, đi đến ba đường ác rồi, bạn mới biết được sự nghiêm trọng của thứ bệnh độc này. Trái ngược với ba thứ độc này gọi là ba thiện căn. Do đây có thể biết, thế gian bao gồm tất cả tội ác chính là từ ba độc tham-sân-si sanh ra, và ngược lại, bao gồm tất cả việc thiện thế gian đều là từ không tham, không sân, không si mà ra. Chúng ta phải đoạn tham-sân-si, cho nên Phật thường nói: “Cần tu giới-định-huệ, diệt trừ tham-sân-si”, đây là điều vô cùng quan trọng.
Tham-sân-si ba độc phiền não, nếu như bạn không thể khống chế được, Tịnh Độ tông tuy là không bảo bạn đoạn phiền não, nhưng bảo bạn phải phục phiền não. Sức mạnh của câu A Di Đà Phật có thể áp chế được tham-sân-si, tuy có nhưng nó không thể khởi tác dụng, như vậy mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Nếu như bạn có thể đem ba độc phiền não tiêu trừ, bạn vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc chẳng phải là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, mà mức độ thấp nhất là cõi Phương Tiện Hữu Dư, cao hơn nữa là đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Bạn đến bên đó để thành Phật thì thời gian sẽ rất ngắn, không cần thời gian phải rất dài liền có thể đến thế giới phương khác để làm Phật. Ở thế giới Cực Lạc tu hành thành tựu, sau đó đến thế giới phương khác để làm Phật. Đồng tu chân thật học Phật, đối với việc đoạn tham-sân-si phải hạ công phu, nhất định là cần tu giới-định-huệ. Nếu như ba chữ giới-định-huệ này các vị nghe dường như rất mơ hồ, không biết phải bắt tay vào từ chỗ nào, thì chúng ta cần phải từ nơi đề Kinh này giảng cho các vị nghe mới tương đối dễ dàng hiểu được.
“Giới” chính là tâm thanh tịnh, “định” chính là bình đẳng, “huệ” chính là giác. Tâm thanh tịnh có thể phá tham, tâm bình đẳng có thể phá sân hận, giác có thể phá ngu si. Chỉ cần chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày, mỗi giờ mỗi phút lưu ý tâm địa thanh tịnh, tâm địa bình đẳng, giác mà không mê thì được. Đó chính là “cần tu thiện căn cúng dường”. Cho nên một người niệm Phật, bốn chúng đồng tu tu học Tịnh Độ, mỗi niệm đều phải tương ưng với thanh tịnh, bình đẳng, giác, như vậy thì tốt.
Thứ sáu, “Bất xã Bồ Tát nghiệp cúng dường”.
Sự nghiệp của Bồ Tát là gì? Hiện tại các vị không luận là ở nơi một nghề nghiệp nào, chỉ cần bạn giác mà không mê thì nghề nghiệp đó của bạn, sự nghiệp hiện tại đang làm đó chính là nghiệp của Bồ Tát. Sự nghiệp Bồ Tát cùng sự nghiệp của chúng ta không hề phân ra, là một, không phải hai. Chúng ta nêu ra một thí dụ, bạn mở một tiệm buôn bán, mỗi ngày bạn buôn bán, đó là sự nghiệp của bạn. Trước khi bạn chưa học Phật, mục đích mở ra tiệm này là để kinh doanh kiếm tiền, cái lợi này đều là của riêng mình. Hôm nay bạn học Phật rồi, làm Bồ Tát rồi, bạn mở tiệm này không phải vì chính mình, không vì mục đích kiếm lời, mà vì mục đích phục vụ đại chúng xã hội, vì thuận lợi mọi người, vậy thì tiệm đó của bạn chính là Bồ Tát nghiệp. Không luận là nghề nghiệp nào, chỉ cần ta lợi dụng nghề nghiệp này để phục vụ xã hội, lợi dụng nghề nghiệp này để phục vụ chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh được thuận lợi thì sự nghiệp này gọi là Bồ Tát nghiệp. Phật Bồ Tát cùng chúng sanh khác biệt chính là ở một niệm này, không có khác biệt gì khác. Cho dù chúng ta còn trẻ, còn đi học ở trường, đi học thì là Bồ Tát học trò, người học trò này quan niệm là “ta phải cố gắng nỗ lực học cho thật tốt”, lấy được học vị, tương lai từ nơi nghề nghiệp này phát huy cái mà chính mình đã học, vì đại chúng xã hội phục vụ, vì tất cả chúng sanh phục vụ, không vì cá nhân chiếm danh lợi thì chúng ta là học trò Bồ Tát, chúng ta đi học là sự nghiệp Bồ Tát. Cho nên các vị phải nên hiểu, sự nghiệp Bồ Tát chính ở ngay trong đời sống hiện tại của chính mình, ở ngay trong nghề nghiệp trước mắt. Nếu như bạn là một người chủ gia đình, bạn gìn giữ gia đình này thì đó là sự nghiệp của bạn. Bạn có thể đem gia gia đình này sắp đặt được rất tốt, có điều, có lý, có trật tự, làm cho người cả nhà bạn trải qua được rất thoải mái, rất tự tại, rất hoan hỉ, gia đình này làm ra tấm gương tốt cho tất cả mọi gia đình, sẽ ảnh hưởng đến người hàng xóm của bạn, ảnh hưởng đến trong thôn của bạn thì bạn là người chủ Bồ Tát. Sự nghiệp của Bồ Tát không cần phải vào trong tự viện, mà chính ngay trong đời sống hiện tại của bạn, chính ngay trong công việc trước mắt của bạn, thậm chí đến đối nhân xử thế tiếp vật (hiện tại chúng ta gọi là thù đáp), chỉ cần một niệm của bạn, mỗi niệm vì lợi ích chúng sanh, mỗi niệm vì giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ, dẫn dắt tất cả chúng sanh học Phật thì đều gọi là Bồ Tát nghiệp.
Điều sau cùng là “Bất ly Bồ Đề tâm cúng dường”.
Trong bảy điều này, điều đầu tiên và điều cuối cùng là quan trọng nhất. Khi vừa mở đầu và khi tổng kết, tâm Bồ Đề là tâm chân thật giác ngộ, tâm triệt để giác ngộ. Phật ở trong “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh” giảng tâm Bồ Đề với chúng ta, thể của tâm Bồ Đề chính là chân tâm, là bản tánh của chính mình. Ai mà không có tâm Bồ Đề? Mỗi mỗi đều có tâm Bồ Đề, nhưng đáng tiếc là mê rồi. Mê rồi thì không gọi là tâm Bồ Đề, giác ngộ rồi thì tâm này gọi là tâm Bồ Đề, khác nhau chỉ ở giác – mê mà thôi. Bạn nhất định phải giác ngộ, không thể mê hoặc nữa. Thể của tâm Bồ Đề là tâm chân thành, đối với người, với việc, với vật nhất định phải dùng tâm chân thành, không thể dùng hư vọng, phải nói lời thành thật, không tự gạt mình, không gạt người.
Hiện tại trong pháp luật của toàn thế giới đều chú trọng đến quyền riêng tư. Cá nhân có bí mật, không thể để cho người biết. Bí mật thì làm gì là việc tốt được? Chân thành, hoàn toàn phơi bày, không có chút gì bí mật! Bạn phải nên biết, bạn có bí mật thì bạn sống rất khổ sở, phải thường hay bảo mật thì rất khổ. Người không có bí mật thì sống rất tự tại, rất là thoải mái; không có bí mật, đối với bất cứ người nào cũng đều là trung thực, thành thật, quyết định không có che giấu. Ở Hoa Kỳ có các đồng tu trách tôi: “Pháp sư! Vì sao Ngài không có một chút bí mật nào hết vậy?”. Bí mật gì vậy? Tiền gởi ở trong ngân hàng, ngân hàng mà tôi gởi tiền mọi người đều biết, không một người nào không biết, nên họ nói: “Việc này không thể để cho người khác biết”. Tôi nói: “Tại sao không thể để cho người khác biết? Hơn nữa, số tiền đó cũng không phải của tôi, mà do mọi người cúng dường, tôi sẽ không dùng đến nó. Hiện tại chưa dùng thì phải để ở ngân hàng, lúc nào có việc dùng thì lấy ra để dùng, chính tôi từ trước đến giờ không dùng đến”. Hiện tại số tiền đó chi ra lớn nhất chính là tiền học bổng, ngoài ra, khi gặp được một số người khổ nạn thì tôi giúp cho họ. Lần trước ở Hong Kong, pháp sư Minh Tinh là học sinh khóa trước của chúng ta, ông nói, ở quê hương ông có một học trò trẻ tuổi, tánh tình và học tập đều rất tốt, nhưng nhà cậu rất nghèo khổ, không đủ tiền đi học. Trường học bằng lòng miễn học phí cho cậu, thế nhưng sinh hoạt phí thì cậu không có. Tôi hỏi ông ấy, một tháng sinh hoạt phí phải tốn bao nhiêu tiền? Ông nói, hai trăm nhân dân tệ. Tôi liền bảo với ông ấy, nên cố gắng cho cậu ấy đi học, học thẳng đến đại học, tất cả phí dụng của cậu ấy tôi trả. Một thanh niên tốt như vậy, chỉ vì hoàn cảnh sinh hoạt bức bách mà không thể đi học, thật đáng tiếc. Khi cậu ấy học xong là một nhân tài của quốc gia, vì địa phương tạo phước. Cho nên, chúng ta đối với người là một mảng chân thành, nhất định không có một câu vọng ngữ.
Tâm chân thành khởi tác dụng chính là thâm tâm cùng tâm đại bi. Thâm tâm là hiếu thiện, hiếu đức. Tâm đại bi là giúp cho tất cả chúng sanh. Đại từ đại bi, trong Tịnh tông chúng ta đã nói “hồi hướng phát nguyện tâm”. Tất cả công đức mà chính mình tu được, chính mình không cần hưởng thụ, bằng lòng cho tất cả chúng sanh hưởng thụ, bạn nói xem, tự tại dường nào, an lạc dường nào! Chúng ta xem thấy có rất nhiều người trải qua ngày tháng hạnh phúc, an vui, đó mới là an vui chân thật, hạnh phúc chân thật.
Trên “Kinh Hoa Nghiêm”, Bồ Tát Phổ Hiền nói cho chúng ta nghe bảy loại pháp cúng dường. Chúng ta phải quảng tu, phải dùng tâm chân thành mà tu, tận tâm tận lực mà tu thì phước báo mà bạn có được cũng viên mãn giống như trên quả địa Như Lai vậy.
Thời gian hôm nay hết rồi. A Di Đà Phật!
Trích trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 13-14