Tâm Hướng Phật
Nghi Thức

Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực PDF

Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực được sử dụng rất phổ cập trong các chùa. Đối tượng thọ nhận Pháp cúng thí này là loài cô hồn trong cõi Ngạ quỷ.

Nguồn gốc Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực

Đời Tống, có ngài Bất Không Tam Tạng chuyên tu Mật giáo ở núi Mông (thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Bằng độ cảm tâm của vị tu chứng, ngài nhìn thấy các loài ở thế giới âm đến xin ăn. Với lòng từ bi, ngài cho cô hồn thức ăn bằng cách đọc những câu thần chú, thì mỗi loài tự cảm thấy no đủ. Từ đó, ngài soạn ra nghi thức cúng thí cô hồn, gọi là Mông Sơn Thí Thực. Bấy giờ, Phật giáo mới chính thức có nghi thức cúng cô hồn.

Ngày nay, hầu hết các chùa chúng ta đều tụng Mông Sơn Thí Thực vào thời công phu chiều mỗi ngày, để cúng thí cho cô hồn, vì theo lời của Đức Phật dạy rằng buổi chiều là giờ ăn của ngạ quỷ.

Ngài Bất Không Tam Tạng mở đầu nghi Mông Sơn thí thực bằng bài kệ:

Mãnh hỏa diệm diệm chiếu thiết thành
Thiết thành lý diệm nhiệt cô hồn
Cô hồn nhược yếu sanh Tịnh độ
Thính tụng Hoa nghiêm bán kệ kinh
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.

Có nghĩa là cái thành bằng sắt ví cho cảnh điạ ngục bị lửa tràn vô đốt cháy các loại cô hồn ở trong đó. Nếu cô hồn muốn sanh về Tịnh độ, chỉ cần tụng nửa bài kệ của kinh Hoa nghiêm. Kinh dạy rằng nếu người muốn biết rõ ba đời các Đức Phật, thì phải quán tánh Pháp giới, tất cả đều do tâm tạo nên.

Đối với cô hồn, hay nói chung đối với người chết, chẳng những sắc uẩn là thân vật chất không còn, mà cả thọ uẩn, tưởng uẩn và hành uẩn cũng không có. Họ chỉ còn giữ lại thức uẩn, nhưng khi còn sống, thức uẩn do thọ, tưởng, hành uẩn huân tập mà thành. Do đó, lúc chết, cả ba phần là thọ, tưởng và hành (nghĩa là cảm thọ, tưởng tượng và hành vi tạo tác trong tâm) đều lưu lại trong thức uẩn. Nó khiến cho linh hồn hay thần thức bị ám ảnh, cảm thấy nóng lạnh, đói khổ; trong khi sự kiện thực tế gây ra nóng lạnh, đói khổ, không hề có. Thí dụ một linh hồn người chết cảm thấy bị đánh đau đớn, là vì lúc sống họ đã bị đánh và có cảm nhận đau đớn. Sự kiện và cảm nhận đó được lưu trữ trong tiềm thức. Đến khi chết, mặc dù thực sự không bị ai đánh cả, nhưng vì thần thức vẫn còn hoạt động, vẫn còn nghĩ rằng họ đang bị đánh đau. Bấy giờ là “Thức” bị đau, không phải thân đau. Như vậy, cô hồn sống với “Thức”, nên khổ trong “Thức”.

Ngài Bất Không Tam Tạng nhìn thấy được nguyên nhân khổ của cô hồn, ngài mới chọn lời Phật dạy thích hợp với tâm trạng của họ mà giải khổ. Cô hồn khổ vì “Thức” khổ, không phải thân vật chất khổ.

Ngài giải tỏa ý thức khổ cho họ bằng bài kệ kinh Hoa nghiêm. Theo đó, nói lên sự giác ngộ của ba đời các Đức Phật quán sát thấy mọi việc, mọi hiện tượng xảy ra trên cuộc đời, nói rộng là Pháp giới, đều do tâm tạo ra. Cũng vậy, sự đau đớn, bị nóng bức thiêu đốt mà cô hồn phải gánh chịu, chỉ do tâm họ khởi lên mà thôi.

Và nếu họ khởi ý muốn sanh Tịnh độ, ngài trợ lực cho cô hồn bằng ba câu thần chú là Án dà ra đế dạ ta bà ha – Nam mô bộ bộ đế rị đà rị đa rị đát đa nga đa da – Án tam đà ra dà đà ta bà ha.

Những câu thần chú trên bằng tiếng Phạn không thể dịch nghĩa. Nó thể hiện năng lực siêu nhiên của người tu hành đức độ, có khả năng tác động đến thần thức người chết, trợ lực cho họ vượt khỏi khổ sở, đau đớn. Như vậy, khi đọc thần chú, tư cách của người đọc rất quan trọng. Không phải ai đọc cũng có tác dụng giống nhau. Nếu đọc thần chú suông theo hình thức, bằng âm thanh, ngôn ngữ, nó cũng chỉ là những âm thanh bình thường như bao nhiêu tạp âm khác, thì làm thế nào người chết không còn nhĩ căn tiếp nhận cho được.

Người chết chỉ liên hệ với người sống qua tâm. “Thức” của họ và “Thức” của hành giả tiếp xúc với nhau, nói chuyện với nhau. Tất nhiên sự truyền thông bằng “Thức” không đơn giản, vì nó đòi hỏi cả vấn đề hạ thủ công phu cao độ, mới có lực dụng hóa giải được tâm trạng u uất cho cô hồn.

Kế đến tụng danh hiệu Phật và Bồ-tát xong, thì quy y Tam bảo và sám hối cho cô hồn. Quy y Tam bảo, vì đó là mô hình cần thiết tất yếu cho tất cả những ai muốn đi trên con đường bình an vĩnh cửu thực sự.

Khi đã quy y Tam bảo, các loại cô hồn được nhắc nhở thêm về việc sám hối. Sở dĩ giờ đây linh hồn vất vưởng khổ sở chỉ vì tham lam, sân hận, ngu si của ba nghiệp thân khẩu ý từ vô thỉ kiếp mà tạo ra vô số tội. Ngày nay, nhờ nương theo Tam bảo, biết rõ tội lỗi của mình, hết lòng ăn năn sám hối cho tiêu tội, xóa được nghiệp thức. Sau cùng tụng cho cô hồn một loạt các thần chú như diệt nghiệp, biến thực, biến thủy chân ngôn, Và nghi Mông Sơn thí thực kết thúc bằng Bát-nhã Tâm kinh, hồi hướng như thường lệ.

Điểm đặc biệt trong nội dung của nghi Mông Sơn thí thực, phần lớn là các bài chú. Khi tụng thần chú, đều phải quán tưởng, như tụng chú diệt nghiệp chướng của Quan Âm, tâm quán tưởng tất cả chúng sanh có bao nhiêu nghiệp chướng đều bị tiêu diệt.

Tụng chú biến thực, tâm quán tưởng các thức ăn biến hóa ra nhiều đến vô lượng đầy lấp cả hư không. Các loài hưởng thụ pháp vị đều viên mãn. Tụng chú cam lồ, quán tưởng nước cúng biến thành pháp thủy cam lộ rộng lớn như biển, uống nước vào được thanh tịnh, diệu lạc…

Thật vậy, như trên đã nói, cô hồn chỉ còn “Thức”, nên họ không thể ăn như người sống. Họ chỉ ăn bằng thần thức. Người cúng tập trung năng lực để dẫn thần thức người chết nhập với “Thức” của mình, mới đưa cho họ thức ăn được. Vì thế, thức ăn cúng không quan trọng. Chỉ có gạo, muối, nước, nhưng hành giả tụng thần chú quán tưởng là cơm, hay bánh trái…, thì người chết sẽ cảm nhận được giống y như thế.

Từ đó, trở lại vấn đề vật thực không phải là chính yếu, nhưng tư cách của người cúng như thế nào để ảnh hưởng thần thức cô hồn cảm nhận được an vui, no đủ. “HT.Thích Trí Quảng”!

Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực

Tải file PDF tại đây: Nghi Thức Mông Sơn Thí Thực

Nam Mô Diện Nhiên Vương Bồ Tát (3 lần – C)

Mãnh hỏa diệm diệm chiếu thiết thành
Thiết thành lý diệm nhiệt cô hồn
Cô hồn nhược yếu sanh Tịnh độ
Thính tụng Hoa nghiêm bán kệ kinh:
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.

Hoặc:

Lửa dữ bừng bừng cháy bốn bên
Cô hồn nóng bức khổ triền miên
Cô hồn nếu muốn sanh Tịnh Độ
Hãy lắng nghe đây kệ Phật truyền:
“Nếu ai muốn thấy và muốn hiểu
Chư Phật có mặt trong ba đời
Người ấy phải quán chiếu pháp giới
Tất cả đều do tâm mà thôi.” (C)

TRÌ CHÚ
(Mỗi Chú Ba Lần)

Chơn Ngôn Phá Địa Ngục: Án, dà ra đế da ta bà ha. (C)

Chơn Ngôn Triệu Thỉnh: Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da.(C)

Chơn Ngôn Mở Oan Kết: Án, tam đà ra dà đà ta bà ha.(C)

NIỆM DANH HIỆU
(Mỗi Danh Hiệu Ba Lần)

Nam Mô Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (3 lần – C)
Nam Mô Phật thường trú mười phương
Nam Mô Pháp thường trú mười phương
Nam Mô Tăng thường trú mười phương
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà tôn giả (C)
Quy-y Phật
Quy-y Pháp
Quy-y Tăng
Quy-y Phật đấng Phước, Trí vẹn toàn
Quy-y Pháp đạo thoát ly tham dục
Quy-y Tăng bậc tu hành cao tột
Quy-y Phật rồi, quy-y Pháp rồi, quy-y Tăng rồi.

SÁM HỐI VÀ PHÁT NGUYỆN

Phật tử đã tạo ra nghiệp xấu
Cũng vì tâm niệm tham sân si
Do thân, miệng, ý phát sanh ra
Tất cả Phật tử đều sám hối. (C)

Mọi loài đã tạo ra nghiệp xấu
Cũng vì tâm niệm tham sân si
Do thân, miệng, ý phát sanh ra
Tất cả mọi loài đều sám hối. (C)

Cô hồn đã tạo ra nghiệp xấu
Cũng vì tâm niệm tham sân si
Do thân, miệng, ý phát sanh ra
Tất cả cô hồn đều sám hối. (C)

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. (C)

Tự tánh chúng sanh thề nguyện độ
Tự tánh phiền não thề nguyện đoạn
Tự tánh pháp môn thề nguyện học
Tự tánh Phật đạo thề nguyện thành. (C)

TRÌ CHÚ
(Mỗi Chú Ba Lần)

Chơn Ngôn Diệt Định Nghiệp: Án, bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha. (C)

Chơn Ngôn Diệt Nghiệp Chướng: Án, a lỗ lặc kế ta bà ha. (C)

Chơn Ngôn Mở Rộng Yết Hầu: Án, bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da.(C)

Chơn Ngôn Tam Muội Gia Giới: Án, tam muội da tát đỏa phạm.(C)

Chơn Ngôn Biến Thực: Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (C)

Chơn Ngôn Biến Thủy: Nam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát diệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô bạt ra tô rô, ta bà ha. (C)

Chơn Ngôn Nhất Tự Thủy Luân: Án, noan noan noan noan noan. (C)

Chơn Ngôn Nhũ Hải: Nam mô tam mãn đa một đà nẩm án noan. (C)

Nam Mô Đa Bảo Như Lai
Nam Mô Bảo Thắng Như Lai
Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam Mô Quảng Bác Thân Như Lai
Nam Mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam Mô Cam Lộ Vương Như Lai
Nam Mô A Di Đà Như Lai. (C)

Thần chú gia trì thức ăn tịnh
Cúng khắp mười phương chúng Phật tử
Nguyện đều no đủ bỏ xan tham
Mau thoát u minh sanh Tịnh Độ
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề
Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng
Công đức đi về cõi vị lai
Tất cả Phật tử cùng tiếp nhận. (C)

Thần chú gia trì thức ăn tịnh
Cúng khắp mười phương cả mọi loài
Nguyện đều no đủ bỏ xan tham
Mau thoát u minh sanh Tịnh Độ
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề
Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng
Công đức đi về cõi vị lai
Tất cả mọi loài cùng tiếp nhận.(C)

Thần chú gia trì thức ăn tịnh
Cúng khắp mười phương chúng cô hồn
Nguyện đều no đủ bỏ xan tham
Mau thoát u minh sanh Tịnh Độ
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề
Rồi sẽ đạt thành đạo vô thượng
Công đức đi về cõi vị lai
Tất cả cô hồn cùng tiếp nhận. (C)

Này các vị Phật tử
Tôi nay xin dâng cúng
Thức ăn biến mười phương
Phật tử đều tiếp nhận
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về tất cả
Phật tử và chúng tôi
Đều cùng thành Phật đạo. (C)

Này tất cả mọi loài
Tôi nay xin dâng cúng
Thức ăn biến mười phương
Mọi loài đều tiếp nhận
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về tất cả
Mọi loài và chúng tôi
Đều cùng thành Phật đạo. (C)

Này các chúng cô hồn
Tôi nay xin dâng cúng
Thức ăn biến mười phương
Cô hồn đều tiếp nhận
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng về tất cả
Cô hồn và chúng tôi
Đều cùng thành Phật đạo. (C)

Chơn Ngôn Thí Vô Già Thực: Án, mục lực lăng ta bà ha. (3 lần – C)

Chơn Ngôn Phổ Cúng Dường: Án, nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng. (3 lần – C)

KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
Tức diệu pháp Trí Độ
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn. (C)

“Nghe đây, Xá Lợi Tử :
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả. (C)

Xá Lợi Tử, nghe đây :
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt.
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý – sáu căn
Không có sắc, thanh, hương
Vị, xúc, pháp – sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc. (C)

Vì không có sở đắc
Nên khi vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối. (C)

Chư Phật trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác.
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú trí độ
Bát Nhã Ba La Mật”.

Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Gate,
Gate,
Paragate,
Parasamgate,
Bodhi Svaha (3 lần – C)

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN

Nam-mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ, Đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

NGÀY ĐÊM AN LÀNH

Nguyện ngày an lành đêm an lành
Ngày đêm sáu thời đều an lành
An lành trong mỗi giây mỗi phút
Cầu ơn Tam Bảo luôn che chở
Bốn loài sinh lên đất Tịnh
Ba cõi thác hóa tòa Sen
Hằng sa ngạ quỷ chứng Tam Hiền
Vạn loại hữu tình lên Thập Địa. (C)

Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ (C)

Nam Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật (10 lần)
Nam Mô Quán Thế âm Bồ Tát (3 lần)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần)
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần).
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

QUY NGUYỆN

Trầm hương xông ngát điện
Sen nở Phật hiện thân
Pháp giới thành thanh tịnh
Chúng sanh lắng nghiệp trần. (C)

Đệ tử tâm thành
Hướng về Tam Bảo
Phật là thầy chỉ đạo
Bậc tỉnh thức vẹn toàn
Tướng tốt đoan trang
Trí và bi viên mãn.
Pháp là con đường sáng
Dẫn người thoát cõi mê
Đưa con trở về
Sống cuộc đời tỉnh thức.
Tăng là đoàn thể đẹp
Cùng đi trên đường vui
Tu tập giải thoát
Làm an lạc cuộc đời. (C)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo
Trên con đường học đạo
Biết Tam Bảo của tự tâm
Nguyện xin chuyên cần
Làm sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)

Nguyện theo hơi thở
Nở nụ cười tươi
Nguyện học nhìn cuộc đời
Bằng con mắt quán chiếu
Nguyện xin tìm hiểu
Nỗi khổ của mọi loài
Tập từ bi
Hành hỷ xả
Sáng cho người thêm niềm vui
Chiều giúp người bớt khổ.
Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục
Nếp sống lành mạnh an hòa
Cho thân thể kiện khương
Nguyện rũ bỏ âu lo
Học tha thứ bao dung
Cho tâm tư nhẹ nhõm. (C)

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo
Ơn cha mẹ ơn thầy
Ơn bè bạn chúng sanh
Nguyện tu học tinh chuyên
Cho cây bi trí nở hoa
Mong một ngày kia
Có khả năng cứu độ mọi loài
Vượt ra ngoài cõi khổ. (C)

Xin nguyện Phật, Pháp, Tăng chứng minh
Gia hộ cho đệ tử chúng con
Viên thành đại nguyện. (C)

KỆ VÔ THƯỜNG

Ngày nay đã qua
Đời sống ngắn lại
Hãy nhìn cho kỹ
Ta đã làm gì?
Đại chúng hãy cùng tinh tiến
Thực tập hết lòng
Sống cho sâu sắc và thảnh thơi
Hãy nhớ vô thường
Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng. (C)

QUAY VỀ NƯƠNG TỰA

– Con về nương tựa Phật, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
– Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
– Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)

– Đã về nương tựa Phật, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
– Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hóa.
– Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)

– Về nương Phật trong con, xin nguyện cho mọi người thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.
– Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.
– Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (C)

HỒI HƯỚNG

Trì tụng kinh thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên. (C)

Nguyện sinh về Tịnh Độ
Sen nở thấy vô sanh
Chư Phật và Bồ Tát
Là những bạn đồng hành. (C)

Nguyện dứt hết phiền não
Cho trí tuệ phát sanh
Cho tội chướng tiêu tán
Quả giác ngộ viên thành. (C)

Tâm Hướng Phật/TH!

Bài viết cùng chuyên mục

Nghi thức trì tụng Chú Đại Bi đúng pháp đơn giản tại nhà

Định Tuệ

Nghi thức Kinh tụng hàng ngày – Thích Phước Tiến biên soạn PDF

Định Tuệ

Nghi thức phóng sinh đúng Pháp, công đức không thể nghĩ bàn

Định Tuệ

Nghi thức lễ cúng ngày Đức Phật thành Đạo PDF

Định Tuệ

Nghi thức tụng niệm hàng ngày – HT Thích Thiện Sanh soạn PDF

Định Tuệ

Nghi thức cầu an – Tụng Kinh Phổ Môn Phẩm PDF

Định Tuệ

Nghi thức tụng Hồng Danh Bửu Sám – Âm Hán

Định Tuệ

Nghi thức sám hối trước khi tụng Kinh để được nhiều lợi ích

Định Tuệ

Nghi thức tụng Chú Lăng Nghiêm và Thập Chú file PDF

Định Tuệ

Viết Bình Luận