Lục căn viên thông hay còn gọi là lục căn hỗ dụng, nghĩa là việc sáu căn có thể dùng thay cho nhau. Không có mắt vẫn thấy, không có tai vẫn nghe, không có mũi vẫn ngửi được…
Lục căn viên thông hay còn gọi là lục căn hỗ dụng, nghĩa là việc sáu căn có thể dùng thay cho nhau.
Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo: “Đừng theo đuổi sáu trần rồi cặp chúng với cái thấy, cái biết của mình. Nếu quý vị không đuổi theo sáu trần, thì quý vị sẽ thấy như thể là không thấy và nghe như là không nghe. Vì mình không bị ám ảnh bởi cảnh giới của sáu trần. Thì cái sáng suốt sẽ không theo căn. Nó không giao tiếp với trần cảnh nên tánh sáng suốt liền hiển hiện. Cái biết (hư vọng phân biệt) không còn có mặt trong đó nữa. Tánh giác sáng suốt của chính bản tâm mình không truy đuổi theo các căn.
Tuy nhiên, bản tánh giác ngộ sáng suốt của mình được tìm thấy ngay nơi cửa của sáu căn. Khi tánh giác bản hữu tự hiển lộ, thì lục căn viên thông, tức sáu căn có thể được dùng thay cho nhau. Điều nầy không thể có nếu quý vị còn dùng vọng minh và vọng giác. Điều nầy, Lục căn hỗ dụng chỉ xảy ra khi mình dùng tánh sáng suốt chân thật vốn có của bản giác. Thế là sáu căn–mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý–có tác dụng hỗ tương. Mắt có thể nói và tai có thể thấy.
Đọc thêm: Lục căn, Lục trần và Lục thức trong Phật giáo là gì?
Lục căn viên thông: Không có mắt vẫn thấy
Có những vị đã có được lục căn hỗ dụng. Đó là A na luật đà. Quý vị có nhớ ngài không? Ngài là người bị mù khi cố gắng không ngủ. A na luật đà là anh em họ với Đức Phật, ngài là con vua Bạch Phạn. Ngài thích ngủ, và ngủ bất kỳ lúc nào Đức Phật giảng pháp. Đức Phật trách mắng ông về thói quen nầy, Đức Phật nói rằng:
Nầy! Nầy! Sao còn ngủ?
Như loài trai sò kia
Ham ngủ một ngàn năm
Chẳng nghe được tiếng Phật.
Sau khi bị quở trách như vậy, trong nỗ lực của nhiệt tâm, A na luật đà không ngủ suốt bảy ngày đêm. Cuối cùng ngài bị mù vì mất ngủ. Đức Phật thấy thương xót nên mới truyền dạy cho ngài pháp tu Nhạo kiến chiếu minh kim cương tam muội. Nhờ tu pháp này, ngài chứng được thiên nhãn thông. Mắt trần của ngài bị mù, nhưng ngài trở nên đệ nhất thiên nhãn. Ngài có thể nhìn thấy mọi vật rất rõ ràng.
Quý vị không nên nghĩ rằng khai nhãn là giống như nhau trong mọi trường hợp. Có người thấy mọi vật rất rõ ràng, và có người thấy không được rõ. A na luật đà thấy rõ nhất trong tất cả. Ngài có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới như thấy một vật trong bàn tay. Đây là không có mắt mà vẫn nhìn thấy suốt.
Lục căn viên thông: Không có tai vẫn nghe
Đức Phật lại nhắc đến rồng Bạt nan đà không có tai mà vẫn nghe. Đây là loại thần long bảo hộ cho xứ Ma kiệt đà, chăm sóc cho việc mưa thuận gió hòa. Loài rồng nầy được người dân trong xứ quý mến, nên họ đặt tên là Upananda, Hán dịch là Thiện hoan hỷ.
Mặc dù không có tai, nhưng loài rồng nầy có thể nghe bằng râu mọc trên đầu. Thế nên A na luật đà không dùng mắt mà vẫn thấy. Rồng Bạt nan đà không dùng tai mà vẫn nghe. Đây chính là sáu căn hỗ dụng mà chúng ta đang bàn đến.
Lục căn viên thông: Không có mũi vẫn ngửi được
Còn có Thần nữ Căng già không có mũi mà ngửi được mùi hương. Sông Hằng, sông Sindhu, sông Vakshu và sông Sutlej đều phát nguyên từ trên đỉnh núi Tuyết sơn thuộc dãy Hy mã lạp sơn.
Thần nữ Căng già tức nữ thần của sông Hằng, vì sông phát nguyên từ hồ A nậu đạt trên đỉnh Tuyết sơn. Nữ thần nầy là chủ của các vị thần sông. Thần nầy không có mũi, nhưng có thể ngửi được mọi thứ. Bởi bà dùng mắt để ngửi.
Lục căn viên thông: Không có thân vẫn biết xúc chạm
Thần Thuấn nhã đa không có thân mà vẫn biết xúc chạm. Thuấn nhã đa là thần Hư không. Vị Thần hư không nầy không có thân mà vẫn biết sự xúc chạm. Việc đó xảy ra như thế nào? Do hào quang của Như Lai ánh ra mà tạm hiện có thân, chứ bản chất của ông là gió, chứ không có thân thể.
Hào quang của Đức Phật khiến cho vị thần nầy tạm thời xuất hiện, dù vị thần nầy lặng không như gió và không có hình thể gì cả. Nhưng khi thần nầy xuất hiện trong ánh hào quang của Đức Phật, thì vẫn cảm nhận được những cảm giác xúc chạm.
Điều đó làm cho thần hư không rất vui mừng, “Tôi thực sự không có thân, nhưng nay tôi đã có.” Mọi chúng sinh đều sợ bị mất thân mạng, thế nên khi được phép hiện thân, vị thần nầy rất hoan hỷ.” (Kinh Lăng Nghiêm lược giảng: HT Tuyên Hóa)
Tâm Hướng Phật/TH!