Tâm Hướng Phật
Luân Hồi

Làm sao giải cứu khi người đã mắc phải cảnh địa ngục?

Làm sao giải cứu khi kẻ đã mắc phải cảnh địa ngục? Phật Trời thì giải cứu được! Nhưng cũng phải tự lòng nơi kẻ ấy, vui chịu dứt bỏ mà đi theo mới được!

Vấn: Làm sao giải cứu khi kẻ đã mắc phải cảnh địa ngục?

Đáp: Phật Trời thì giải cứu được! Nhưng cũng phải tự lòng nơi kẻ ấy, vui chịu dứt bỏ mà đi theo mới được! Kìa ta hãy nhìn xem một người đang bị khổ. Họ khổ là bởi đang chấp mình ở trong sắc thân tứ đại địa ngục. Họ đang bị hành phạt bởi ác thần vật chất, trong lúc họ đang khổ không còn muốn sống, đâu còn biết đến sự việc, ai ai, họ đâu còn biết ở đâu, cảnh nào, đâu còn sự nói làm gì nữa.

Dầu đang ở giữa đám đông, nó cũng chẳng thấy ai, và cũng không ai thấy đặng tâm nó ra sao? Kẻ nào đến gần, khuyên lơn vỗ về ngon ngọt, thì nó xem như than lửa, nó càng thêm tức tối, nóng nảy đau đớn. Nó chỉ ở trong cảnh giới buồn thảm quạnh hiu một mình nó, nó xem ra cảnh vật đều buồn, và nó thấy ra cảnh đời bằng cặp mắt khác lạ, như là ở thế giới nào đâu.

Tội ác nó càng nhiều thì sự khổ của nó càng nhiều, vợ chồng, cha mẹ, con cháu, kẻ thương yêu, không ai chia sớt đặng. Nó thấy ra nó bơ vơ cô độc. Nó thấy nó bị lẻ loi sa thải, như bị rớt xuống vực sâu, lui tới không đường, đang bị ép ngặt; kẻ xung quanh càng cười, là nó càng khóc, mà nào ai hay biết?

Trần thế đối với nó lu mờ, của si mê, vách sắt, của tứ đại tham lam, lửa cháy bởi sân giận. Nó không biết đường nào ra khỏi bốn vách tứ đại cả. Nó càng muốn sống, muốn vui, là càng thấy chết, thấy khổ.

Nếu nó còn có chút trí phân biệt, thì nó mới biết là nó đang bị ở, nhốt dưới thấp sâu của nước đất, và kẻ nào khác, có được trí huệ, mắt pháp, cũng nhìn thấy ra được, là nó đang bị lún ngộp dưới lầy sâu, trong hang đen tối.

Nó mà tự thoát ra được, là khi nào tội nghiệp nơi thân khẩu ý không còn nắm giữ nữa, nó chết bỏ cái ta, đang bị ở trong tứ đại đó đi, tức là linh hồn bay ra khỏi đặng. Bằng chẳng vậy nó phải gặp một vị Trời, chư Tiên, trước kia tu hạnh cư sĩ tại gia, đến mở khai cửa địa ngục cho nó, cũng như khai vẹt trí não cho nó, thấy ra ánh sáng, lẽ phải, đường ngay, chánh thiện, và noi theo gương vị Trời trí thức, mà đi theo thiện đạo, lìa bỏ sự tham, sân, si trong tứ đại vật chất mới được. Kẻ ấy nhờ Tiên, Trời dìu dắt đem lên, ra mới khỏi, mà cũng phải tự nơi ý của nó, vui chịu hối quá bỏ đi theo mới được. Như vậy là nó không còn tham tiếc những sự vật chất chứa từ lâu, thành ra địa ngục ấy.

Cũng có người vì nghiệp tội quá nặng, té rớt quá sâu, vào tận chót đáy địa ngục, phải bị hoảng hốt mê sảng mãi, kẻ ấy như ngủ mơ màng, như ngây si. Không biết gì hết, nó mê man trong cảnh sợ hãi từ khi còn thân cho đến khi bỏ xác, trăm ngàn muôn ức năm mà chưa tỉnh lại, linh hồn không có sự nhập thai chi được, giống như kẻ điên khùng, đang sống không có cái biết, sau khi chết rồi cũng còn như vậy, linh hồn mãi mãi đang bị ám ảnh ở trong thế giới đâu đâu, nào có biết sự nhập thai là gì. Thật vậy, nghiệp quả nặng, từ khổ đến điên, là nguy lắm, cảnh tượng ấy kêu là địa ngục vô gián a tỳ.

Những kẻ ấy, thật cũng khó cứu nó đặng, trừ phi là khi nào, nó đã tỉnh bớt. Nó nhận ra, nó tự biết nó là đang ở trong địa ngục, và nó có ý muốn ra thì hào quang pháp lý, ánh sáng, giác ngộ, của Phật, của Bồ Tát pháp sư rọi chiếu soi ngay nó, làm cho dứt si mê đêm tối, do ánh sáng đó, nó được mát mẻ, no đủ, trong sạch, nó được bừng mắt tỉnh dậy, sáng thông, nó nhìn ra khắp thế giới chúng sanh, nó phát tâm đại bi lớn rộng, làm cho vách sắt tứ đại, tham lam ích kỷ phải ngã sập đi, không còn nhốt bó nó nữa; nhờ hào quang của Phật mát mẻ, làm cho lửa sân giận không còn nung nấu, nồi chảo danh lợi thảy phải sập tan, bấy giờ nó có thể đứng đi tự do, theo chơn nối gót y như Phật; là sự đi đứng nói làm lo cho khắp cả chúng sanh trong võ trụ, không còn mắc kẹt phải ở một chỗ của địa ngục ích kỷ nữa, thế là từ đó về sau, nó đã giác ngộ như người xuất gia, tinh thần đầy đủ, bước trên sự vật mà đi, do mắt trí kinh nghiệm tỏ rõ không còn sợ lầm sụp té như khi trước, nó rất nhẹ nhàng, bay bổng lên cao, làm người cao thượng, không còn bị tình tự vây trói, níu buộc chi nữa được.

Cũng có kẻ bị khổ ít, địa ngục nhẹ, khi nhờ ánh hào quang của chư Phật soi đến, là dây xích xiềng đều dứt hết, địa ngục bị sấm sét nổ vỡ tan hoang mặt đất nâng đội lên cao như kẻ đã được xuất gia giải thoát, ở nơi đất Tịnh độ; bấy giờ vì nỗi mừng vui của mình mà thương xót đến chúng sanh, kẻ khác sau khi đắc trí huệ, phát tâm đại bi đại nguyện tế độ chúng sanh, tức thì có được tòa sen, của chư đệ tử Giáo hội Tăng già nâng đỡ dưới chân, đưa về cõi Phật, thành chư Bồ Tát sơ tâm.

Cũng có kẻ chưa được như vậy, nhờ ngó ra cảnh không gian, thấy sự khổ thân của kẻ khác, liền đem trí thức của mình ra, nói làm giúp đỡ thiên hạ mà quên mình nhẹ nhàng, thì cũng được có vừng mây lành của kẻ mến đức mang ơn nâng đưa lên cõi thiên đường, hưởng được sự vui tươi phước lạc. Vị tiên trời ấy, chết bỏ thoát khỏi địa ngục, sanh về cõi Trời, là nhờ nơi ánh sáng Pháp bảo của Chư Phật. Và khi được làm tiên trời rồi, nếu không tham hưởng cõi ấy cho là khổ trí, thì hãy dứt bỏ cảnh trí cao sang, hạ mình đi xuất gia Khất sĩ theo Phật, để được tu tập tâm chơn như bình đẳng, thanh nhàn, yên tịnh.

Còn bằng chẳng vậy, thì cũng phải học Pháp bảo của Phật, cho có ánh sáng vòng hào quang trên đầu không cho mê muội hay hoặc ngó mặt ngay qua cõi Phật Pháp Tăng Tam bảo, luôn luôn thính pháp văn kinh, cho có hào quang thì mới đứng yên ngôi vị được.

Chư tiên mà được quý trọng hơn hết, là phải thường tế khổ phò nguy cho chúng sanh luôn, để cho vừng mây dưới chân được vững chắc, vì nếu chúng sanh ghét giận bỏ đi, là mây tan đoàn rã, té sa trở lại, hai nữa chư tiên chớ khá ham đội mão vàng, áo bạc, chạm trổ thêu hoa, điểm trang bóng sắc, thì thân mình mới có chiếu hào quang, nhẹ nhàng không té rớt. Và được tươi tốt sáng trong quý lạ.

Chư tiên phải siêng năng dày công trau giồi phước đức, đừng tham toại hưởng danh lợi phong lưu, thì địa vị càng cao quý, quyến thuộc càng thêm đông, nhưng khi nào đã quá mệt khổ mà phước huệ đủ đầy, thì cũng nên hưu trí xuất gia làm Phật, chớ đừng tham chấp thế lực oai quyền, không kiêng, không sợ, chẳng biết nghe ai, của bậc vua trời, mà có ngày đọa lạc.

Bởi cái vui vật chất của địa ngục, xác thân, với cái vui tinh thần của trí não, cũng y nhau, hết thích ưa thì lâu ngày nhàm chán, ai ở trên cao mãi khỏi bị mỏi chân khổ té, còn dưới thấp sâu thì chết ngộp nhóng trồi, không ai ở mãi bình yên lâu dài một chỗ cho được.

Vấn: Nếu lý như vậy, sao có người lại cúng vái làm sớ điệp, lầu kho phướng xá, xin tội rước vong ở đâu có linh nghiệm chăng?

Đáp: Thân là địa ngục, trí là thiên đường, tâm là Tây phương. Cầu là cầu xin người đừng làm ác, vái là vái xin người đừng mê muội, tức là bằng sự khuyến tu tập thiện, nói pháp làm lành, còn việc sớ điệp lầu kho phướng xá, xin tội rước vong là làm cho vừa lòng vua quan với người giàu sang, kẻ hiện tại.

Còn linh nghiệm hay không, là biết chừng đâu, vía dại lòng tham của kẻ chết nào đó, họ nếu được thấy như vậy, chắc là họ được no lòng mát dạ, rằng con cháu không quên ơn họ, chắc họ cũng được vui cười giây lát. Chớ nếu họ đi học đạo lo tu, bỏ tham lam, làm lành phải quên lòng ích kỷ đoạn dứt ân tình, thì họ mới được siêu thoát nhẹ nhàng biến sanh lên Trời Phật, không còn nặng nề thấp sâu đau khổ nữa.

Trích CHƠN LÝ của TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG!

Bài viết cùng chuyên mục

Chuyện nhân quả: Siêu độ oan gia rắn

Định Tuệ

Quả báo đọa địa ngục nướng tay – Địa ngục du ký

Định Tuệ

Anh linh và sự siêu độ, cầu siêu cho linh hồn

Định Tuệ

Thuyết minh về Thân trung ấm

Định Tuệ

Mối liên hệ giữa vong hồn và con cháu trên trần gian như thế nào?

Định Tuệ

Người mới qua đời có biết là mình đã chết rồi không?

Định Tuệ

Trạng thái của vong hồn khi người vừa mới mất

Định Tuệ

Có cảnh giới linh hồn bình thường giống cõi xác thân này không?

Định Tuệ

Những phương thức lúc chuyển sinh

Định Tuệ

Viết Bình Luận