Phật nói rất hay: “Mọi thứ đều không mang theo được, chỉ có nghiệp theo mình”. Vì sao chúng ta vẫn tạo nghiệp? Vì mê hoặc.
Các vị đồng học.
Xin tiếp tục xem câu thứ 10 của Cảm Ứng Thiên: “Hựu hữu Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân tại nhân đầu thượng, lục nhân tội ác, đoạt kỳ kỷ toán” (lại có các thần Tam Thai, Bắc Đẩu ở trên đầu mỗi người, ghi chép tội ác của họ để tước bớt tuổi thọ). Câu này là nói, con người bất luận vào lúc nào, bất luận ở nơi đâu, nhất cử nhất động, khởi tâm động niệm đều có quỷ thần nhìn thấy. Ở trong quỷ thần, có những vị chuyên môn giám sát việc thiện ác của người. Bạn tâm thiện hạnh thiện họ đều có ghi chép, tâm ác hạnh ác cũng có ghi chép. Hay nói cách khác, thiên địa quỷ thần có hồ sơ hoàn chỉnh về tất cả tạo tác, khởi tâm động niệm suốt đời của chúng ta, ghi chép còn rõ hơn so với Cục Cảnh sát, Cục Điều tra của người thế gian. Nếu chúng ta hiểu rõ cái chân tướng sự thật này thì tâm kính sợ, tâm sợ hãi tự nhiên sẽ sinh khởi ngay, nhất định sẽ biết kiểm điểm tâm hạnh của mình .
“Tam Thai, Bắc Đẩu”, đây là nói bốn vị thần linh được thờ cúng trong đạo giáo dân gian Trung Quốc. “Thượng Thai” quản lý việc sinh tử của con người, “Trung Thai” quản lý phước báo của con người, “Hạ Thai” quản lý lộc mạng của con người. Nếu dùng cách nói hiện nay thì thần Hạ Thai quản lý tiền tài, thần Trung Thai quản lý địa vị trong xã hội, thần Thượng Thai quản lý vận mạng. Chuyện sống chết, thọ yểu, nghèo cùng hay phú quý của một con người đều có quỷ thần đang quản lý. Chúng ta muốn hỏi, họ có quyền lực chi phối họa phúc, sinh tử của chúng ta hay không? Nói lời thành thật là họ không có quyền lực chi phối. Thế nhưng họ cai quản những sự việc này. Kiết hung họa phước là do chúng ta tự mình định đoạt, họ chỉ thực thi, giống như Cục Cảnh sát, Cục Điều tra của thế gian. Nếu người hành thiện, họ trình báo lên trên thì khen thưởng. Người tạo ác, họ báo lên trên thì thi hành trừng phạt. Họ là đơn vị giám sát, thi hành, không phải là chi phối. Người chi phối đích thực là chính chúng ta.
Cho nên vận mệnh là do mình tạo, tự làm tự chịu, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý và sự thật này. Mặc dù bạn tạo tác một số tội lỗi, phần trước đã nói qua, hễ bạn biết sai, có thể sửa lỗi thì thiên địa quỷ thần sẽ không trừng phạt người biết sám hối sửa lỗi. Phật Bồ-tát thì càng từ bi hơn, đối với chúng sanh tạo ác, đọa lạc đường ác, vẫn dùng tâm từ bi đối xử như thường, đó là Thánh nhân. Quỷ thần vẫn là phàm phu, chưa buông xả tình chấp, thấy người hành thiện thì họ hoan hỷ, thấy người tạo ác thì họ chán ghét, họ còn là phàm phu. Chúng ta ngày nay cũng là phàm phu, lấy bụng dạ bản thân chúng ta đo lường mà suy ra đối với những thiên địa quỷ thần này, cũng có thể biết sơ qua một vài phần.
Trong đạo giáo còn có Nam Đẩu tinh quân, Nam đẩu chủ quản sự sống của con người, Bắc Đẩu chủ quản về sự chết. Người đầu thai vào trong cõi người thì Nam Đẩu tinh quân đến ghi chép, lưu những tư liệu này ở chỗ của ông. Người đến lúc tuổi thọ hết rồi, chết đi cũng có ghi chép, Bắc Đẩu sẽ quản lý những sự việc này. Người thế tục nói nếu như người có cầu khẩn ở thần linh thì cần nên hướng về Bắc Đẩu. Những thiên địa quỷ thần này thường hay luân phiên xuống thế gian. Việc giáng lâm của họ là có ngày giờ nhất định, đại khái cứ mỗi hai tháng sẽ đến một lần, hoặc hai lần, hầu như là có định kỳ, giống như họ đi tuần tra vậy, vào thời gian nào thì đến khu vực nào đó để tuần tra, hai tháng đến một lần, đây là dùng lịch con giáp trước đây của Trung Quốc, 60 tổ hợp can chi là một giáp. Cho nên cứ mỗi hai tháng ít nhất họ sẽ đến một lần.
Kinh Nghiệp Báo Nhân Duyên lại nói: “Khí của bảy ngôi sao thường kết thành một vì sao ở trên đầu con người, cách đỉnh đầu ba tấc”. Ngạn ngữ thời xưa của Trung Quốc nói là “ngẩng đầu ba thước có thần linh”, trong kinh nói không phải ba thước mà là ba tấc. Một người tâm địa thiện lương, hành vi lương thiện thì trên đỉnh đầu của người này có hào quang, hào quang lớn nhỏ không như nhau, màu sắc không như nhau, người không nhìn thấy nhưng quỷ thần nhìn thấy.
Hiện nay có một số người tu thiền định có thể nhìn thấy. Tâm địa thanh tịnh đến một trình độ nào đó cũng có thể nhìn thấy. Còn có một số người luyện khí công, khí công cũng là một loại tu định, họ cũng có thể nhìn thấy. Màu sắc của hào quang tốt nhất là màu vàng kim, sau đó là màu vàng, màu xấu nhất là màu xám, màu đen. Người có khí sắc màu đen thì thọ mạng gần như là sắp tận rồi. Người luyện khí công gọi là khí, trong Phật pháp gọi là hào quang. Từ đó cho thấy con người không thể không tu thiện.
Tôi thường nói là đời người khổ đau, ngắn ngủi. Nhớ lại lần đầu tiên tôi đến Hồng Kông, năm 1977, tôi đã ở lại bên đó bốn tháng, giảng Kinh Lăng Nghiêm. Lúc đó người mời tôi là pháp sư Thánh Hoài và cư sĩ Tạ Đạo Liên. Pháp sư Thánh Hoài hiện nay vẫn còn sống, cư sĩ Tạ thì đã vãng sanh hồi năm ngoái rồi. Biết bao nhiêu bạn đồng tu thời đó, hơn một nửa đều đã ra đi rồi, đời người giống như là một giấc mộng vậy.
Trước đây nơi họ sống đều là khu nhà giàu, tôi cũng đã đến rồi. Hiện nay lầu cao vẫn còn đó, nhưng đã thay tên đổi chủ rồi, khiến chúng tôi cảm nhận sâu sắc sự vô thường, bản thân mình cũng mỗi năm một già yếu hơn. Khi tôi mới đến Đài Loan, bạn học chúng tôi có hơn hai trăm người, hiện nay còn lại có lẽ chưa được năm mươi người. Con người đứng trước tình cảnh này cảm xúc sẽ sâu sắc.
Phật nói rất hay: “Mọi thứ đều không mang theo được, chỉ có nghiệp theo mình”. Vì sao chúng ta vẫn tạo nghiệp? Vì mê hoặc. Đối với những đạo lý này, tuy chúng ta thường hay đọc sách, đọc kinh, nghiên cứu giáo lý, nghe giảng kinh nhưng vẫn không chống nổi sự dụ hoặc của thế gian, không thắng nổi danh vọng, lợi dưỡng, tài, sắc, danh, thực, thùy. Không thắng nổi liền tạo nghiệp. Nghiệp là cái đi theo bạn, bạn tạo nghiệp thiện, bạn sẽ có thiện báo. Bạn tạo tác nghiệp ác thế là có ác báo. Thiện ác báo ứng không phải do quỷ thần giáng cho chúng ta, cũng không phải Phật Bồ-tát, cũng không phải Thượng Đế hay vua Diêm-la đến trao cho chúng ta. Tất cả kiết hung họa phước đều do chính mình tạo nên, tự làm tự chịu. Chỉ có người chân thật hiểu rõ đạo lý này, hiểu rõ chân tướng sự thật thì tâm mới bình lặng. Mặc dù gặp phải tất cả tai họa cũng sẽ không oán trời trách người. Bị người khác làm nhục, hãm hại cũng sẽ không oán hận người. Người như vậy biết được điều gì? Biết đây là nhân quả báo ứng, là quả báo. Ta trước đây không xúc phạm người thì ngày nay người khác sẽ không xúc phạm ta. Ta trước đây không có hãm hại người, ngày nay người ta sao có thể hãm hại ta. Chúng ta bị người nhục mạ, bị người hủy báng, bị người hãm hại, đều là do tự mình tạo cả, tự mình phải nên đón nhận, đón nhận một cách hoan hỷ thì món nợ này liền trả xong rồi. Nợ mạng phải đền mạng, nợ tiền phải trả tiền, quả báo thông ba đời, đâu thể trốn thoát được chứ. Dù bạn thành Phật rồi, thành Phật thị hiện vào trong lục đạo để độ hóa chúng sanh cũng không thể trốn thoát nghiệp báo của đời trước.
Chúng ta đã đọc qua ở trong sách sử, Khổng Lão Phu Tử bị đói ở nước Trần, Thích-ca Mâu–ni Phật bị quả báo phải ăn thứ lúa dùng cho ngựa ăn trong ba tháng. Phật ở trong kinh đã nói với mọi người, nghiệp nhân của đời trước đến lúc này duyên đã chín muồi rồi, dù thành Phật cũng không có cách gì tránh khỏi quả báo.
Ở trong Tông môn có một câu chuyện là Pháp sư hồ ly, rất nhiều đồng tu đều biết rõ. Câu chuyện về Thiền sư Bá Trượng đời nhà Đường. Đại sư Bá Trượng mỗi ngày giảng kinh, có một lão già sống ở sau núi hằng ngày đến nghe kinh. Người thông thường không biết, nhưng Đại sư Bá Trượng thì biết ông ấy không phải là người. Lời thông thường chúng ta nói ông là hồ tiên. Một hôm lão già này thỉnh giáo với Đại sư Bá Trượng, kể rõ quá trình đọa lạc của bản thân ông. Ông đời trước là một vị Pháp sư giảng kinh thuyết pháp, thính chúng đưa ra câu hỏi cho ông, ông đã trả lời sai, trái nghịch với nhân quả nên bị đọa lạc làm thân hồ ly đã hơn năm trăm năm rồi, hiện tại không có cách gì thoát khỏi đường súc sanh. Ông cầu Đại sư Bá Trượng giúp đỡ. Đại sư Bá Trượng nói, ngày mai khi tôi giảng kinh, ông hãy nêu ra câu hỏi mà thính chúng đã hỏi ông trước đây. Đến ngày hôm sau, hai người họ bèn biểu diễn, con hồ ly tinh già đưa ra câu hỏi: “Xin hỏi Đại sư, bậc đại tu hành còn rơi vào nhân quả hay không?” Cái ý này chính là nói người chân thật tu hành chứng đạo, chứng quả, chứng quả cứu cánh viên mãn là Phật-đà, Phật-đà có còn rơi vào nhân quả hay không? Đại sư Bá Trượng trả lời là: “Bất muội nhân quả (không lầm nhân quả)”. Trước đây, con hồ ly già này, lúc còn là Pháp sư, đã trả lời người ta là: “Bất lạc nhân quả (không rơi vào nhân quả)”, là sai một chữ. Ngài Bá Trượng sửa lại là “bất muội nhân quả”. “Bất muội” là gì vậy? Quả báo thì phải chịu, nhưng biết rõ ràng tường tận, biết thấu suốt. “Bất muội” không phải là không có nhân quả. Thánh nhân thế gian là Khổng Lão Phu Tử bị đói ở nước Trần là quả báo của nhân đời trước. Phật Thích-ca Mâu-ni hành khất không có thức ăn, gặp phải nạn đói, người ta đem những thức ăn nuôi ngựa ra cúng dường Phật, Phật cũng tiếp nhận. Đời trước tạo nhân bất thiện, đời này vẫn phải chịu quả báo, Ngài hiểu rõ, Ngài sáng tỏ. Cho nên người tu hành gặp phải bất kỳ nghịch duyên hay kẻ ác nào cũng đều biết rất rõ ràng, cần đền mạng thì phải đền mạng, cần trả nợ thì phải trả nợ, sau khi hoan hỷ trả xong rồi thì sẽ rõ ràng tường tận.
Chúng ta xem thấy ở trong truyện ký về An Thế Cao, đó là người tu hành chứng quả, đã đến Trung Quốc để trả nợ mạng hai lần. Đời trước ông ngộ sát người ta, trong đời sau ông cũng bị người ta ngộ sát hai lần, ở trong truyện ký đều viết lại rất rõ ràng. Do đó chúng ta mới hoàn toàn khẳng định, người thế gian, nếu như nói giành phần lợi của người khác, là không có sự việc này. Nếu như bạn nói bị thiệt thòi thì cũng không có việc này. Đời này bạn giành phần lợi của người thì đời sau phải trả lại cho người ta, đời này bị thiệt thòi thì đời sau có được phước báo. Nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai, thiện địa quỷ thần thấy rất rõ ràng, rất minh bạch. Tạo tội nghiệp nhất định là tổn phước giảm thọ. Trong lịch sử cổ đại Trung Quốc ghi chép những sự việc này rất nhiều. Hiện nay, những quả báo này có thể nói là càng rõ rệt hơn, chúng ta không có năng lực phát hiện là do chúng ta quá sơ suất, quá lơ là mà thôi. Chỉ cần đầu óc bình tĩnh một chút, quan sát thật kỹ xung quanh thì chúng ta sẽ thấy nhân quả báo ứng rất rõ ràng, tỏ tường phân minh. Sau đó bạn mới công nhận kinh điển của Phật, giáo huấn của cổ Thánh tiên Hiền không sai chút nào. Chúng ta lơ là thì chỉ là tự lừa mình dối người. Trước đây lão sư Lý thường nói, con người phải nhìn cho xa. Thế nào gọi là xa? Đời sau là xa, đời này là gần, nhìn đời này là bạn nhìn quá gần rồi, bạn phải nhìn đời sau, nhìn về đời sau nữa, bạn mới biết được mình cần phải làm như thế nào có lợi cho chính mình, làm như thế nào có hại cho bản thân. Hiện nay mấy người biết được lợi và hại. Hy vọng mọi người chúng ta biết quí trọng cái nhân duyên này, nghiêm túc nỗ lực mà tu học.
Trích trong:
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 8
Tâm Hướng Phật/St!