Kinh Đại Bát Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử Đức Phật trước khi nhập diệt vừa là Kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài.
Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử Đức Phật trước khi nhập diệt vừa là Kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của Ngài.
Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra, vì bào thai to lớn quá phải giải phẫu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì – em gái của mẹ. Việc này được người Ấn Độ Bà la môn kể lại hay các người hướng dẫn du lịch Ấn Độ kể lại không có trong Kinh nhưng cũng có lý vì Đức Phật thế gian rất dũng mãnh, sức mạnh vô địch nhưng cha mẹ thì yếu về thể chất.
Đến khi nhập tịch, Ngài cũng được ghi nhận là đau đường tiêu hóa nên thường đau bụng, cũng có thể là đau đại tràng, khi ăn nấm mộc nhĩ trên gò đàn hương do người thợ đi rừng hái về dâng cho Phật gọi là nấm linh dược bổ dưỡng. Nấm này có tánh dương mạnh và làm loãng máu giống như nấm Đông trùng Hạ thảo, Linh chi bây giờ. Vì thế có thể Đức Phật đau yếu dần vì xuất huyết đường ruột, đây là một giả thuyết theo lịch sử mà suy đoán.
Đức Phật biết mình sẽ nhập diệt nên đi về vùng đất Kusinara. Có kinh nói rằng nơi đây là nơi Đức Phật còn trẻ bắt đầu tu tập nên Ngài muốn trở về thời trẻ của mình như lá rụng về cội. Cũng có kinh nói rằng Ngài biết sau này Ngài nhập diệt có để lại ngọc xá lợi của thân thể sẽ bị các nước tranh giành nhau mà chiếm lấy nên Ngài chọn nơi đây là ngã ba đường của 3 nước thì ngọc xá lợi sẽ được dân 3 nước đến chiêm ngưỡng dễ dàng, không có chiến tranh giành lấy ngọc xá lợi. Lòng đại từ bi của Ngài đến phút chót đã biểu hiện như thế.
Kinh Đại Bát Niết Bàn đáng lý quan trọng vì vừa lịch sử, vừa giáo lý toàn bộ Đạo Phật thu gọn lại qua các vấn đáp của các Bồ tát trưởng lão vừa là sự sùng bái của chúng sanh trước khi Ngài nhập diệt với các hiện tượng kỳ diệu xảy ra.
Trong kinh nầy, Đức Phật nói chuyện với Ananda, Bồ tát Sư tử hống, Bồ tát Ma ha Ca Diếp và tự xưng mình là Như Lai. Như là như thị chân như như như bất động, lai là lai vãng, vậy Như Lai là lai vãng như như bất động, tức là không đến không đi.
Kinh Đại Bát Niết Bàn có hai loại kinh bằng tiếng Pali là Phật giáo Nguyên thủy Trường bộ kinh có vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch và một bằng tiếng Phạn của Đại-thừa có vào thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch, tức cách kinh Pali 600 năm. Sang Tây phương có dịch sang tiếng Anh là David 1881, hay Waldschmidt 1944 bằng tiếng Đức, André Bareau 1970 tiếng Pháp. Bản tiếng Việt do HT Thích Minh Châu và Thích Trí Tịnh dịch. Bảng tiếng Phạn Sanskrit của Đại-thừa dài hơn bản tiếng Pali của Nguyên-thủy rất nhiều.
Mời quý bạn đọc trọn bộ Kinh Đại Bát Niết Bàn – HT Thích Trí Tịnh việt dịch tại file PDF dưới đây.
[pvfw-embed viewer_id=”642″ width=”100%” height=”600″ iframe_title=”Tâm Hướng Phật” zoom=”auto” pagemode=”none”]