Nghe Phật nói xong, tôi và toàn thể, đều cảm niệm ân đức bao la của Ngài, rồi đó có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả, vui mừng tạ lễ mà lui.
Chính tôi được nghe: Một thuở nọ đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đương tuyên diễn Chánh Pháp cho Đại chúng nghe, những người dự thính cũng đông, họ kéo nhau đi toán này toán khác tấp nập.
Lúc đó có một người dòng Bà La Môn mù, ngồi bên lề đường, thấy người đi nhộn nhịp hỏi rằng:
– Hôm nay các ông đi đâu đông thế?
Họ đáp rằng:
– Anh không biết hay sao?
– Dạ! Chúng tôi không được biết!
– Ít được gặp Phật ra đời lắm anh ạ, hiện Ngài đương thuyết pháp ở nước ta, chúng tôi đi nghe thuyết pháp đây!
Người này tuy mù nhưng có một đặc tài là hiểu biết tám thứ tiếng, anh ta chỉ nghe lời nói là phân biệt được, kẻ tôn sang, hay người bần tiện. Tám thứ tiếng là:
1. – Điểu thanh
2. – Tam xích điểu thanh
3. – Phá thanh
4. – Nhạn thanh
5. – Cổ thanh
6. – Lôi thanh
7. – Kim linh thanh
8. – Phạm thanh
Diểu thanh: là người nói tiếng như chim kêu, người này có tính quên ơn sinh thành dưỡng dục (bất hiếu), tâm địa không có liêm khiết.
Tam xích điểu thanh: người này bẩm tính hung tàn bạo ngược, hay làm hại người thương tổn cho nhân vật, ít có lòng từ bi hòa thuận.
Phá thanh: tức là người con trai nói tiếng như đàn bà, đàn bà nói tiếng như đàn ông, kẻ này bạc phúc bần cùng hà tiện.
Nhạn thanh: tiếng nói như chim nhạn kêu (ken két) người nay có tính hớt của người làm của mình, ăn cắp lời của người làm lời của mình. Nhưng hay chơi nhiều bạn thân, và hay đón tiếp người xa lạ bốn phương.
Cổ thanh: tiếng nói vang vang như tiếng trống, người này biện luận nhanh chóng, giải thích đạo lý sâu huyền có thể làm quốc sư.
Lôi thanh: tiếng nói ầm ầm như tiếng sấm vang, người này trí tuệ sâu rộng, phân tách được pháp tính giáo hóa cho thiên hạ.
Kim linh thanh: tiếng nói như tiếng chuông, người này giàu có, lắm tiền của vàng bạc.
Phạm thanh: tiếng nói như cõi Trời Phạm thiên, người này phúc đức cao dày, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, nếu xuất gia thì thành Phật.
Anh mù nói: – Các ông làm ơn dắt tôi đi với: tôi có thể phân biệt được tám thứ tiếng, nếu thực là Phật tôi nghe tiếng nói, thì tôi biết, vì Phật nói thuộc tiếng Phạm Thiên.
– Phải! Anh có đi tôi vui lòng dắt anh.
Khi tới nơi anh lắng tai nghe Phật thuyết pháp, quả nhiên âm thanh của Ngài như tiếng Phạm, vui mừng quá!…Tự nhiên hai con mắt của anh hết mù, được sáng tỏ như mọi người, nhìn thấy Phật sắc vàng chói lọi, đủ ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp, một lòng cung kính lễ dưới chân Phật. Khi Ngài thuyết pháp, anh chí tâm nghe nhận, nên phá tan được ác kiến trong hai mươi ức kiếp, chứng quả Tu Đà Hoàn, đắc tuệ nhãn, cúi đầu bạch Phật rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Không biết được duyên lành gì, con tới đây nhờ sức từ bi hai mắt được sáng tỏ, đời là vô thường không thể bảo đảm, cúi xin Thế Tôn cho con được nhập đạo tu hành?
Phật nói: – Thiện Lai Tỷ Khưu!
Nói dứt lời tóc anh rụng hết, áo mặc trên mình biến thành áo Cà Sa, đầy đủ vẻ Sa Môn.
Theo Phật tu học không bao lâu, được đắc quả La Hán, cắt đứt đường luân hồi sinh tử, thấy thế đại chúng đều cho làm lạ, tôi từ tòa đứng lên tới trước Phật quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi ích cho muôn loài chúng sinh, kẻ mù được sáng tỏ con mắt, ơn ấy vô cùng cao cả. Như người Bà La Môn này, trong chốc lát được sáng con mắt thịt, hơn nữa lại được con mắt tuệ, không biết đời trước có duyên gì với Ngài, cúi xin nói cho chúng con được rõ?
Phật nói: – A Nan ông nên biết không những nay ta cho người này được con mắt sáng, đời quá khứ ta đã khoét con mắt của ta cho họ một lần.
Kính lạy Ngài! Việc cho mắt đời quá khứ thế nào, xin nói cho chúng con được biết?
– A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm, không biết bao nhiêu kiếp A Tăng Kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một thành tên là Phú Ca La Bạt, ông vua đó tên là Tu Đề La (Tàu dịch là Khoái Mục). Ông có con mắt sáng trông xa bốn mươi dặm, coi suốt qua tường vách, bởi thế nên đặt tên là Khoái Mục.
Vua Khoái Mục, thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ức tụ lạc, hai muôn phu nhân thể nữ, một vạn quan đại thần, năm trăm Thái Tử. Người thứ nhất tên là Thi La Bạt Đề (Tàu dịch Giới Hiền). Nhà vua từ bi đạo hạnh đối với dân như cha hiền thương con. Chăm dạy dân tu thiện, vì thế nên trong nước thanh bình không có đao binh biến khởi, mưa hòa gió thuận, được mùa lúa tốt nhân dân an vui sung sướng.
Một hôm nhà vua ngồi trên bảo điện tự nghĩ như vậy:
– Ta được làm nhân chúa, phúc như tứ hải, ra lời nói thiên hạ tùng phúc, như gió thổi lướt ngọn cỏ, đó cũng do phước đã gây từ bao đời trước, nếu đời nay không tạo nhân lành, đời sau lấy gì trông cậy, dĩ nhiên bị đau khổ. Tỷ như kẻ nông phu, mùa xuân mất công cấy lúa, mùa hạ được gặt, hái, thâu hoạch, nếu mùa xuân trễ biếng không làm, dĩ nhiên mùa hạ không có lúa gặt, sự đói thiếu sẽ đưa lại cho họ.
Định xong, hạ lệnh cho bá quan văn võ, mở kho lấy vàng bạc tiền của quần áo, thóc gạo thức ăn dùng, đem ra ngoài thành bố thí cho nhân dân, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, mở kho bố thí. Từ đó nhân dân được no nê sung sướng ca tụng ân đức của nhà vua, vang dội khắp thiên hạ.
Bấy giờ có một ông vua nước nhỏ, tên là: Ba La Bà Bạt Di, ông này không tuân theo sắc lệnh của vua Khoái Mục, trị dân có năm điều quá trớn. Tính nết vội vàng ít suy nghĩ, lại hay ham sắc dục, không để ý đến việc nước, không biết thâu dụng những người trung lương hiền sĩ, bắt dân làm nhiều việc vô ích, các nhà thương mại ngoại quốc đến buôn bán, đánh thuế quá nặng, nhân dân oán ghét trong triều lúc đó có một quan tên là Lao Đà Đạt thông minh, thao lược, hiểu biết đạo lý can vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Ngài có năm điều không hay, nếu không sửa đổi lại, một ngày gần đây tai họa sẽ tới!
Nhà vua nói: – Những việc gì khanh nói cho ta hay?
1.- Bệ Hạ có tính vội vàng ít suy nghĩ, không lo việc lớn sau sẽ hối.
2.- Ham mê sắc dục, không đoái đến việc nước, để cho những kẻ gian thần làm phi pháp, oan uổng nhân dân, muốn kêu không có chỗ minh xét.
3.- Trong nước có những người trung lương, hiền sĩ không thâu dụng, không biết phòng ngừa việc chưa xảy ra.
4.- Bắt nhân dân cực khổ làm những việc vô ích, oán hận rất nhiều.
5.- Nhà thương mại các nước tới buôn bán, đánh thuế quá nặng! Cho nên các hàng hóa bị ách tắc đỏ. Năm việc này là triệu chứng vong quốc, xin Bệ Hạ ra lệnh đổi ngay để theo chánh sách cũ.
Hiện nay vua Tu Đề La (Khoái Mục) ban ơn cho dân chúng, các nước đều khâm phục, chỉ có nước ta không chịu theo, nên dân chúng oán hận. Xin Bệ Hạ mở kho bố thí cho nhân dân, thì con cháu sẽ được hưởng phúc lâu dài.
Ông nghe xong, thay sắc mặt nổi giận nói:
– Khanh biết trước thế ư? Để thử xem, chúng oán hay tự miệng khanh nói ra, ta quyết định không thay đổi chánh sách.
Lao Đà Đạt thầm nghĩ như vầy:
– Mình thấy nhà vua trị chính không khéo để giới thiệu những người trung thành ra giúp nước, đã không nghe, lại còn phát giận với ta, tất nhiên có nguy hại cho ta. Vậy ta phải lập kế cứu lấy dân.
Lao Đà Đạt bị tiết lộ kế hoạch.
Nhà vua sai quân vây bắt. Lao Đà Đạt cũng biết trước, lên ngựa chạy tẩu thoát, quân sĩ đuổi theo sau, ông quay súng bắn chết mười tám người, còn thì chạy tán loạn.
Sang nước Phú Ca La Bạt vào yết kiến vua Khoái Mục, vua hỏi han vui vẻ, đối đáp sự lý phân minh. Thấy người có tài, nên nhà vua dùng ông làm việc triều chính, dần dần thân cận, ông trình bày sự hành động của Ba La Đà Bạt Di cho vua Khoái Mục nghe.
Khi đó vua Khoái Mục hỏi bá quan rằng:
– Nước vua Ba La Bà Bạt Di có thuộc quyền ta cai trị không?
Bá quan đáp: – Tâu Bệ Hạ! Có, nhưng họ dè chừng làm lơ, ít khi lui tới, và không chịu tuân lệnh của Bệ Hạ!
Lao Đà Đạt nói:
– Tâu Bệ Hạ! Ông đó ngoan cố và mờ ám lắm! Có tính hoang dân vô độ, dân chúng chán ghét, coi như một kẻ thù, xin Bệ Hạ cấp cho binh mã, hạ thần sang tiêu diệt.
Vua Khoái Mục đồng ý cấp binh mã và hạ lệnh cho các nước đem binh đến trợ chiến.
Vua nước bên cạnh thấy thế sang mách. Vua Ba La Bà Bạt Di chạy trốn, ra đi mặc một cái áo rách, lẩn thân nơi kín đáo.
Quan phụ tướng tìm hỏi:
– Bệ Hạ lo gì xin cho biết?
– Khanh không biết sao! Trước đây Lao Đà Đạt trốn sang nước Phú Ca La Bạt, hắn mưu với vua Khoái Mục sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn nước đem đại hùng binh tiêu diệt nước ta, và bắt ta đó.
Đại Thần thưa: – Xin Bệ Hạ hãy yên trí, để tập họp bá quan bàn tính, và cũng không lo, Hạ thần đã có biện pháp.
Nhà vua nghe theo phụ tướng, trở về bảo điện triệu tập quần thần văn võ đông đủ nói:
– Bá quan nên biết! Nước nhà nguy ngập đến nơi, vua Khoái Mục sắp đem quân sang đánh, bá quan làm thế nào kháng cự nổi?
Khi đó mỗi ông bàn một cách, đều vô hiệu quả. Ông phụ tướng này đứng lên nói rằng:
– Tôi nghe vua Khoái Mục tự thề rằng: chỉ trừ cha mẹ không bố thí, còn thân mình cho đến quốc thành thê tử ngoại vật, ai xin gì cũng cho. Nước ta có một người Bà La Môn mù bây giờ sai họ đến xin mắt, nếu được ta không cần phải đánh, họ cũng tự rút lui.
Lập tức cho kêu người Bà La Môn đến.
Quan phụ tướng nói: – Nước ta sắp bị giặc đến xâm chiếm, mong người giúp cho một việc.
– Kính thưa phụ tướng! Tôi hèn đớn mù lòa thế này thì làm gì được mà phụ tướng nói giúp nước.
– Anh hãy nghe tôi nói: Bây giờ vua Khoái Mục nay mai sẽ đem quân đến đây đánh nước ta, chúng tôi khỏe mạnh và có con mắt sáng, còn có thể chạy được, anh mù lòa như vậy thì chạy sao? Tất nhiên bị nó giết. Tôi biết vua Khoái Mục có nguyện rằng: ai xin gì cũng cho, chỉ trừ cha mẹ là không cho thôi, bây giờ anh đến xin mắt, quyết thế nào cũng được, nếu anh xin được, thì không đánh họ cũng phải rút quân, vì thế mà vua kiếm anh đến đây để nhờ việc đó.
– Thưa phụ tướng! Vậy tôi đi bằng cách nào?
– Ta sẽ cho người dắt anh đi, lo gì việc đó!
Khi đó nước vua Khoái Mục có nhiều điềm bất tường biến hiện: đất động, sao chổi mọc, mưa đá, mây kéo mờ mịt suốt ngày, chim chóc kêu thảm thiết, hổ, báo, sài, lang gầm hét, dân chúng đều kháo nhau là điềm bất tường.
Khi anh Bà La Môn đã tới nước vua Khoái Mục, vào trước sân rồng lớn tiếng nói rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Hạ thần ở nước ngoài, nghe thấy danh đức Ngài làm hạnh bố thí, nên không quản xa xôi đến đây để ăn xin.
Nhà vua từ trên ngai rồng bước xuống hỏi:
– Ông ở đâu tới đây? Đường sá xa xôi đi khỏi mệt không, tới đây muốn xin gì?
Tâu Bệ Hạ! Phước bố thí về ngoại vật bé nhỏ, chỉ có bố thí nội thân mới lớn, tôi vị mù đôi mắt đã lâu, đến đây để xin Ngài hai con mắt.
Nhà vua nghiêm nét mặt nói:
– Cũng được, ta vui lòng!
– Tâu Bệ Hạ, việc đó lâu mau thế nào ạ?
– Anh yên tâm, bảy ngày nữa.
Vua Khoái Mục sau khi nhận lời cho mắt, làm chiếu chỉ thông tư cho tám vạn bốn ngàn nước biết rằng:
– Các Vương Hầu nên biết, tôi vì thực hành hạnh bố thí sau bảy ngày nữa sẽ khoét mắt cho người Bà La Môn, vậy hôm đó quý Ngài đến đông đủ.
Vua quan các nước tiếp được chiếu chỉ, khi đến đông đủ đều thưa rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Hạnh bố thí công đức của Ngài nhận thấy lớn lao vô cùng cực, việc khoét mắt cho kẻ Bà La Môn, xét rằng vô ích quá, Ngài là đấng nhân chúa dùng con mắt sáng, đưa dắt dân làm những công đức lành, phúc đức như trời biển, như núi non, giờ đây mất hai con mắt, cũng như cả quốc dân mất con mắt sáng, cúi xin miễn bỏ việc đó.
Quan bản triều, Hoàng Hậu, cung phi thể nữ, Thái Tử, ai nấy, đều tức bực trong lòng, vì can vua không được, toàn thể đều âu sầu buồn bã, đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn.
Ông Thái Tử Giới Hiền tâu rằng:
– Kính lạy Phụ Vương! Cho con xin thay để kẻ Bà La Môn khoét mắt con, con tuy chết nhưng thiên hạ không bị nguy ngập.
Nhà vua thấy họ can gián nhiều quá, đứng trước đại chúng lớn tiếng nói rằng:
– Kính thưa quý Vương hầu, cùng toàn thể! Chính tôi bố thí mắt này phải có một mục đích: tôi xét rằng từ đời quá khứ đến nay, trong kiếp sinh tử lâu dài, nếu góp lại những xương thân ấy, có thể lớn gấp bao lần núi Tu Di, máu tiết chảy ra, có lẽ nhiều hơn nước bốn biển, những lúc biệt ly nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước đại hải, khi ở trong địa ngục, những thân bị đốt cháy hoặc mổ xẻ thì những con mắt ấy bỏ đi vô số. Khi làm loài Ngạ Quỷ lửa trong mình phát ra thui đốt, từ thân này qua thân khác, phá hoại bao nhiêu con mắt.
Lúc đọa làm súc sinh bị loài người đâm chém, nấu rang, hết thân này lại thân khác. Thì những thân ấy đã tiêu hủy mất bao nhiêu con mắt kể sao cho xiết.
Khi làm người sống lâu hoặc chết non, tranh tài, tranh sắc, tranh danh, đánh giết lẫn nhau, nhiều ai tính xuể, thì những con mắt ấy, đều tan không, tóm lại cũng là vô ích vì không dùng nó để làm công đức.
Hoặc ở cõi Trời vui năm cảnh dục chốn thiên cung, khi hết phúc, cũng phải đọa đày theo nghiệp, những thân mạng nhiều không số tính. Xét lại từ đời vô thỉ, nổi chìm trong ba cõi, sống thác theo năm thú, cũng do ái tình bổn thân của nghiệp tham, sân, si tạo tác, thân người tan vụn như vi trần, ai đã từng đem thân ấy bố thí để cầu thành Phật. Đây là một bộ mắt tanh hôi chẳng bao lâu sẽ bị tiêu không vô ích. Tôi bố thí đôi mắt tanh này, nguyện mười phương chư Phật cho tôi con mắt “Nhất Thiết Trí”. Sau này thành Phật tôi sẽ đem lại con mắt trí tuệ thanh tịnh cho tất cả quý Vương hầu cùng pháp giới chúng sinh, can tôi làm chi! Ngăn cản làm chi!
Tất cả mọi người nghe vua vói xong, không ai dám trả lời sao hết, nín thinh như thóc lép.
Vua Khoái Mục thấy mọi người đã an lòng, ngoảnh bảo tả hữu rằng:
– Các ông hã lấy dao khoét đôi mắt hộ tôi.
Họ thưa: Tâu Bệ Hạ! Thà cái thân của chúng tôi có chịu chết tan như hạt cải, chứ không nỡ nào đem cái tay này mà khoét mắt của Bệ Hạ.
– Các ông hãy tìm hộ cho một người, con mắt họ đen hắc, và hay nhòm xuống lại đây.
Đúng như trực, tìm một người tới vua đưa cho con dao, bảo anh chàng Hắc Mục Thị Hạ rằng:
– Anh hãy khoét mắt cho ta.
Anh không e dè gì, vua bảo làm ngay, cầm dao khoét luôn con mắt bên tả để vào tay vua.
Nhà vua nâng lên trán lập thệ rằng:
– Nguyện đem mắt này bố thí cho kẻ mù, để cầu thành Phật, kẻ Bà La Môn được mắt này có thể trông sáng suốt.
Nói rồi nhà vua để vào hố mắt cho họ. Khi được mắt để vào, anh Bà La Môn nhìn thấy vua và tất cả mọi người chung quanh mừng quá tâu rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Thôi xin một con là đủ nhìn, Bệ Hạ để lại dùng, tôi không lấy nữa.
– Ta đã hứa cho nhà ngươi cả, thì ta cứ cho, vui lòng mà lấy, không sao!
Khoét luôn mắt nữa để vào tay vua, vua lập thệ rằng:
– Nguyện đem mắt này, một lòng thành thực bố thí để cầu thành Phật, kẻ Bà La Môn được mắt này coi xem sáng tỏ.
Nói xong để vào hố mắt cho anh Bà La Môn. Quí hóa thay! Lạ lùng thay! Anh chàng mù được mắt ông Quốc Vương nhìn xa trông suốt, đang tối được sáng, đang mù được mở. Nhà vua hy sinh con mắt ai dám cả gan, phải chăng người siêu phàm xuất tục coi thân mình tựa đống tro tàn, đem đổi lấy Pháp Thân Bất Diệt. Đổi mắt đã lạ chưa? Một phương thuốc huyền diệu phát xuất từ đây.
Ngay lúc ấy, trời đất chuyển động, các cung điện trên thiên cung đều nghiêng ngã, những ông Thiên Tử thấy sự chuyển biến, nhìn xem có một vị Bồ Tát khoét mắt bố thí, họ đều bay xuống tung hoa cúng dàng, và khen rằng:
– Bồ Tát làm hạnh bố thí không đoái thân mình, phước ấy Ngài cầu làm gì?
– Thưa Ngài! Tôi hy sinh cặp mắt này, không cần làm vua Ma Vương, Phạm Thiên, Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vương để hưởng dục lạc trong ba cõi, mục đích cầu thành Phật và độ sinh thoát khỏi luân hồi, cho họ được an vui đạo Niết Bàn.
– Rất quý tấm lòng cao thượng của Ngài, nhưng xin hỏi Ngài đau đớn như vậy có phàn nàn gì không?
– Sự phàn nàn hối hận quyết không có một mảy may!
Tôi thấy Ngài huyết chảy như lưu ly, thân thể xanh lợt, tự nói không, việc đó khó tin.
– Quý Ngài không tin, tôi xin thề rằng: “Tôi một lòng thành thực làm hạnh bố thí để cầu thành Phật, nếu miệng nói tâm nghĩ đúng, thì cặp mắt tôi lại được bình phục như cũ”.
Nói dứt lời cặp mắt của Ngài, tự nhiên lại được hoàn toàn, xem coi sáng tỏ hơn xưa. Khi đó, tất cả trời người ai nấy đều vui mừng và cảm tâm sắt đá của nhà vua, ai ai cũng khen rằng: – Sau này Ngài thể nào cũng được thành Phật.
Khi đó vua Khoái Mục bảo anh Bà La Môn rằng:
– Hôm nay tôi cho ông cặp mắt thịt, lai sinh thành Phật tôi sẽ cho ông con mắt trí tuệ.
Nói xong sai người dẫn anh vào kho, tha hồ cho lấy vàng bạc mang về bản quốc.
Vua Ba La Bà Bạt Di hay tin ra đón, bắt gặp hỏi rằng:
– Anh xin mắt được chăng?
– Tậu Bệ Hạ! Xin được và đã nhìn thấy sáng suốt.
– Thế nào! Vua Khoái Mục sống hay chết?
– Tậu Bệ Hạ! Khi mổ mắt nhà vua đau đớn huyết chảy đẫm người coi rất ghê sợ, các ông Thiên Tử đến hỏi thăm, Ngài có thệ nguyện, khi tuyên thệ xong, tự nhiên hai mắt lại được bình phục như cũ, có lẽ còn sáng suốt hơn trước.
Ông vua này nghe nói tức giận quá, nổ tim chết.
Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:
– A Nan! Ông nên biết: Vua Khoái Mục thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, vua Ba La Bà Bạt Đi nay là ông Điều Đạt, anh Bà La Môn xin mắt vua Khoái Mục thuở đó chính là anh mù vừa đắc đạo đây.
Đời quá khứ, được hàm ân ta, khỏi mù, đời nay gặp ta sáng tỏ con mắt thịt, đồng thời lại được cả mắt tuệ, ta cũng vì chúng sanh đời đời làm những hạnh khổ tích công tu đức đến nay được thành Phật. Vậy các ông cũng nên chăm chỉ mà tu hành cầu đạo vô vi an lạc làm lòng.
Nghe Phật nói xong, tôi và toàn thể, đều cảm niệm ân đức bao la của Ngài, rồi đó có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả, vui mừng tạ lễ mà lui.
Trích: Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh – Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch